"Bồng bồng mẹ bế con sang
Muốn sang thì bắc Cầu Kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy"
Người bình dân Việt Nam, trong lời ǎn tiếng nói dân gian và
những khúc hát ru của mình, đã truyền miệng ngàn đời hàng hàng châu
ngọc, nhưng không ít lời phân định là ca dao hay tục ngữ hoặc những "lời
ru chia ba" - hài hoà cả ba thể loại trên.
Hai cặp lục bát dưới đây đã thấm vào lòng chúng tôi từ thuở còn
nằm nôi, chính là một trong những lời ru - ca dao - tục ngữ cài đan,
lồng ghép, tạo nên sự đa thanh, đa nghĩa, biểu cảm lạ lùng.
"Bồng bồng mẹ bế con sang
Đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo"
Hai câu đầu rõ ra lời ru con - lời ca dao yêu thương, ngậm ngùi, kể lể.
Mẹ bồng con đi dọc bờ sông vắng. Muốn sang sông nhưng: "Đò đục quan cấm,
đò ngang không chèo". Mẹ than cùng con, mẹ than đời mẹ. Giọng giãi bày,
nghẹn ngào, ấm ức.
"Muốn sang thì bắc Cầu Kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy"
Hai câu dưới, hiển nhiên là tục ngữ nối theo, kết tinh bao trải
nghiệm đắng cay suốt cuộc đời nổi của mẹ. Có người hiểu câu 3: muốn
sang trọng thì bắc cầu đẹp (lộng lẫy). Một số ý kiến khác: muốn sang
(qua) sông thì phải bắc (làm) cầu để qua. Đặt trong vǎn mạch cả 4 câu.
Chúng tôi nghiêng về cách hiểu thứ 2. Từ "sang" (động từ ) ở câu này
đồng nghĩa cùng loại với từ "sang" trong câu đầu. Bởi mơ ước suốt đời
của mẹ là đứa con được sang bờ bên kia, vượt thoát dòng sông mênh mông
đói nghèo, dốt nát.
So với nhiều câu tục ngữ nói về thầy (không thầy đố mày làm nên,
một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy, cơm cha, áo mẹ công
thầy..v..v..) hai câu này mượt mà duyên dáng hơn. Trong hình thức lục
bát, nối tiếp tự nhiên từ hai câu ca dao giàu âm thanh (bồng bồng), hình
ảnh (mẹ bế con, đò dọc, đò ngang, cầu kiều...), tuy là lời ru lúc ẵm
con mà chở nặng lời mẹ dạy con từ sớm, từ xa, người ta có thể truyền
trao kinh nghiệm sống, ứng xử, nhưng để có học thức, có vǎn hoá, (hay
chữ) nhất định không thể thiếu được vai trò của ông thầy.
Đó là lời bà mẹ Việt Nam nghèo, đảm đang, đặt cả niềm tin vào vị
thế người dạy con mình, dẫu đời bao ngang trái, vẫn kiên dũng bắc cầu
cho con qua sông, vượt lên nghèo đói lạc hậu.
Vậy, chỉ còn cách "bắc cầu mà nối", vì "dốt phải đi tìm thầy"!
Không nên hiểu "sang" ở đây là "giàu sang" thì bắc "cầu kiều" (đẹp). Đây
cũng chẳng phải là chiếc cầu nổi (phù kiều) hoặc trùng lặp ("cầu" -
"kiều" chữ Hán). "Cầu Kiều" là chiếc cầu cao ("kiều", tiếng cổ còn có
nghĩa là "cao") để cho đò dọc, đò ngang đều qua lại được. Cần phải cao,
chắc để con bước lên đường học tập vững vàng.
Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học, "Không thầy đố mày làm
nên", thậm chí "dốt nát đến đâu, học lâu cũng biết". Ở đây từ "thầy" chỉ
có nghĩa người dạy học (thầy đồ, thầy giáo) - tấm gương mẫu mực. sáng
ngời về đạo đức, học thức. Muốn thành người, muốn chữ tốt vǎn hay ắt
phải tìm đến với thầy. ở xứ sông nước này, bắc cầu cũng cần như cần như
cần ǎn, học, làm lụng (chính nhà giáo - nhà thơ hiền triết Nguyễn Bỉnh
Khiêm cũng đã bắc hai chiếc cầu Nghênh Phong và Trường Xuân khi lui về ở
ẩn). Thế kỷ này con cháu bắc cầu qua sông Hồng, sông Mã, sông Gianh,
sông Hương rồi sẽ qua sông Tiền, sông Hậu. Muốn sang sông phải biết bắc
cầu. Muốn học hành thành đạt, phải yêu quí sự uyên bác và lòng yêu trẻ
của thầy. Cái lý tự nhiên giản đơn là vậy.
Cả hai câu đều kết cấu theo kiểu quan hệ điều kiện - giải thiết:
Muốn A thì B. Nhưng kết luận sau thiên về giá trị tinh thần (yêu thầy).
Từ "lấy" trong "lấy thầy" không bao giờ hàm ý "lấy làm chồng", mà chỉ
biểu thị hướng của hành động nhằm mang lại kết quả thiết thực. Tất nhiên
không phải là lấy được, lấy lệ. Giáo sư Nguyễn Thạch Giang cho biết có
bản ghi là phải yêu lòng thầy. Chúng tôi nghĩ là có lý, đỡ gây hiểu lầm,
nghĩa là yêu quý tấm lòng cao cả của thầy bằng cả tấm lòng. Xin chớ
hiểu là lấy lòng, cho vừa lòng thầy, nịnh thầy.
Từ ý câu tục ngữ, chúng tôi nghĩ về "Tam giác sư phạm" Thầy -
trò (con trẻ) - kiến thức (chữ); rộng hơn là mô hình liên kết giáo dục:
gia đình - nhà trường, xã hội. người bình dân xưa đã hiểu sâu vai trò
truyền bá đạo lý, trí thức, lễ và vǎn của các nhà giáo, đồng thời cũng
biết thắt chặt mối liên hệ giữa các thành phần giáo dục.
Bốn câu mẹ ru con hay tự nói với mình? Mẹ nói với ta: người thấy
rất xứng đáng được kính yêu vì là người chỉ đường, dẫn lối, giáo dục,
giáo dưỡng mình hiểu biết, lao động, biết sống đẹp theo lẽ phải của cộng
đồng, biết tự khẳng định. Còn mãi lời ru, lời biết ơn tất cả những ai
hết lòng vì sự nghiệp đào tạo, giáo dục! Còn có giáo dục thì còn có
thông minh, vǎn hoá, phát triển! Còn mãi trong ta, dẫu học đã thành,
danh lập, vẫn nhớ về lời ru - giao thoa, hài hoà tục ngữ, ca dao.