(Có những người thuộc phái nam nhi anh hùng đã chau mày phàn nàn: “Lòng cuồng điên vì nhớ…”, nghe sao yếu quá! Dưới con mắt của các đấng tu mi đó thì đàn ông không có quyền ủy mị như vậy! Huống hồ tác giả lời ca lại là người tuổi cọp.)
Chẳng biết rằng khi đó, tác giả bài Hoài Cảm có thấy hắt hơi giật mình không. Nếu có, thì Cung Tiến cũng khó động lòng hơn Đinh Hùng, tác giả bài Kỳ Nữ bất hủ (“Ta gần em, mê từng ngón bàn chân. Mắt nhắm lại để lòng nguôi gió bão”).
Ở bên kia “chiến tuyến”, các cô lại thấy rằng đấy mới là lời ngợi ca xứng đáng và rất anh hùng với tình yêu. Phải chi Cung Tiến phổ nhạc bài Kỳ Nữ của Đinh Hùng, chắc là nam ca sĩ trình bày ca khúc sẽ phải gục trên sân khấu thì mới xứng!
📷
Lòng cuồng điên vì nhớ….
Có lẽ, Cung Tiến là người viết nhạc sớm nhất của chúng ta. Ông sáng tác ca khúc đầu tay là Thu Vàng khi mới 15 tuổi, năm 1953. Mùa Thu ấy là Thu Hà Nội và chỉ Hà Nội mới có lá vàng để ông nhặt, chứ trong Nam không đủ lạnh để có lá vàng. Và ông đề tặng Hà Nội những ngày ấu thơ. Ca khúc trở thành Hà Nội tiêu biểu của lớp người di cư nhớ Bắc, rồi mới chinh phục mọi người nghe qua cách trình bầy nhí nhảnh vui tươi của giọng ca Tâm Vấn thời đó.
Sau đấy, ông viết Hoài Cảm, và đề tặng Đỗ Đình Tuân. Dường như Cung Tiến sáng tác cho mình và cho bạn, vì phần lớn các ca khúc ông viết đều trân trọng ghi tặng từng người. Như Mùa Hoa Nở, Cung Tiến viết năm 1954 đánh dấu làn sóng di cư của cả triệu người miền Bắc vào Nam. Được viết theo dạng một bài hợp ca, nên ca khúc ít được trình bày. Thật đáng tiếc.
Sau đó Cung Tiến viết liên tiếp mỗi năm một bài: Hương Xưa năm 1955 đề tặng Khuất Duy Trác. Cũng chính Duy Trác đã đưa Hương Xưa và tên tuổi Cung Tiến đến thính giả của đài phát thanh và trên sân khấu của các trường trung học và đại học Việt Nam. Năm kế tiếp 1956, ông viết Nguyệt Cầm trên ý thơ của Xuân Diệu, và trở thành người sáng tác loại âm hưởng bán cổ điển độc đáo và ngự trị cùng một cõi nhạc cao sang quý phái của Vũ Thành và Dương Thiệu Tước…
Dòng nhạc mở đầu của Nguyệt Cầm phảng phất tấu khúc Romance en Fa của Beethoven, nội dung lại có nét Debussy. Nhưng ca khúc kén người hát và người nghe. Nhạc trưởng Vũ Thành thường trao cho Anh Ngọc vì chỉ danh ca này mới hát câu “trăng sầu riêng chiếc, trăng sầu riêng chiếc, sầu cho tới bao giờ…” crescendo da diết và dài hơi hơn mọi người! Năm sau đó 1957, ông viết Lệ Đá Xanh theo ý thơ Thanh Tâm Tuyền và đề tặng Phạm Đình Chương.
Từ đây là thời gian ông đi du học. Khi trở về, Cung Tiến sáng tác rất nhiều thơ phổ nhạc và họa hoằn mới soạn lời từ, như Mắt Biếc năm 1966 và hoàn chỉnh lại năm 1981. Hoặc bản Bản Tango Cuối, viết năm 1974, hoàn chỉnh năm 1980.
Những bài thơ ông phổ nhạc giai đoạn này là Thuở Làm Thơ Yêu Em của Trần Dạ Từ như, Đêm của Thanh Tâm Tuyền, Đi Núi của Xuân Diệu, hay Đôi Bờ của Quang Dũng… Chỉ tác gỉả mới biết vì sao ông thích phổ thơ hơn là viết lời riêng của mình. Phải chăng là càng hiểu biết nhiều thì cách viết càng bó, làm ngôn ngữ thành khó hiểu?
Sau biến cố 1975, Cung Tiến và gia đình vượt thoát được, rồi định cư tại tiểu bang Minnesota. Từ hải ngoại ông tiếp tục phổ thơ Quang Dũng là bài Kẻ Ở và Đường Hoa, thơ Phạm Thiên Thư là Vết Chim Bay, và bản cảm dịch của Vũ Hoàng Chương bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu… Hoàng Hạc Lâu là bài trác tuyệt nhất của ông.
Đặc biệt nhất có liên khúc Vang Vang Trời Vào Xuân là phổ thơ Trần Kha, bút hiệu ẩn của bạn ông, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, khi còn ở trại học tập lén gửi ra ngoài. Liên khúc được tác giả viết cả phần đệm piano. Lời thơ và ý nhạc quyện nhau thành lời kinh cầu trong sáng, một vầng trăng rực rỡ, một ban mai thắm tươi và dịu dàng của tâm hồn thanh thản trên những hành hạ khổ đau của thể xác… Dân ta vốn yêu thơ, trong tù cũng làm thơ và ý thơ vẫn phơi phới cùng nét nhạc Cung Tiến. Nhưng, như các ca khúc sáng tác sau thời du học bên Úc, liên khúc 10 bài ngắn này lại không dễ hát nên người yêu thơ và nhạc ít có dịp thưởng thức.
Năm 1988 Cung Tiến hoàn tất một tác phẩm độc đáo và đồ sộ, đó là một bản hợp tấu khúc viết cho dàn giao hưởng lấy cảm hứng từ Chinh Phụ Ngâm Khúc của bà Đoàn Thị Điểm diễn thơ chữ Hán của Đặng Trần Côn. Hợp tấu khúc có âm hưởng hoàn toàn Á Đông với nhạc khí Tây phương. Khi diễn tả áng thơ tuyệt tác này, Cung Tiến quả là nhạc sĩ tài hoa và sâu sắc.
Có những lúc được nghe nói rằng ông còn muốn soạn nhạc để diễn tả thơ Đường hay cả bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi… Nghe nói thôi chứ chưa nghe thấy nhạc. Ông còn cảm hứng hay không, chúng ta chưa biết được.
Cung Tiến là nhạc sĩ của những tác phẩm có âm hưởng bán cổ điển rất trang nhã, cầu kỳ và chuyển dần về nhạc Đông phương. Nhưng nhớ lại thì hình như chúng ta có thể rút ra một kết luận rất nhuốm vẻ Thiền.
Ban đầu, ông viết nhạc rất hay trên lời từ óng chuốt của mình. Sau đó, ông hết soạn lời mà chỉ chú ý đến nhạc, để phổ lời của các thi sĩ ông quý trọng. Đến một giai đoạn sau, lời ca cũng tan vào nhạc vì Cung Tiến soạn nhạc không lời. Dùng nhạc để người nghe cảm ra lời thơ Chinh Phụ Ngâm hay bản hùng văn đại cáo Bình Ngô là đi tới chỗ rất cao của nhạc. Như nhiều nhạc sĩ cổ điển Tây phương đã dùng nhạc không lời để diễn tả một phòng tranh hay một họa phẩm chẳng hạn.
Nhưng ta cứ yên tâm, không lên tới cõi đó, mình vẫn còn nguyệt cầm để hoài cảm hương xưa thì cũng đủ vui rồi….