Showing posts with label TẢN MẠN. Show all posts
Showing posts with label TẢN MẠN. Show all posts

September 12, 2016

KHI TÔI CHẾT, HỎI CÒN AI GHÉT, AI THƯƠNG?


Giả sử một ngày tôi không còn trên đời này nữa, những người yêu tôi và ghét tôi sẽ thay đổi như thế nào? Giả sử có một ngày, khi tôi chết đi…Người ghét tôi, họ sẽ nhảy múa…
Người yêu tôi, họ sẽ khóc như mưa…

Ngày thứ 2 qua đi…
Thân xác tôi sẽ được chôn dưới lòng đất…
Người ghét tôi, nhìn thấy mộ tôi, họ chỉ mỉm cười và bước đi…
Người yêu tôi, không dám quay đầu nhìn lại, dù chỉ một lần.
yêu và ghét, sống trên đời, giàu nghèo,

Một năm sau…
Thân xác thịt của tôi đã trở nên mục nát.
Ngôi mộ của tôi, cỏ mọc um tùm trong sương gió.
Người ghét tôi, sau khi ăn uống no say, đôi khi vẫn rất khó chịu khi nhắc đến tên tôi.
Người yêu tôi, trong đêm khuya vắng vẻ, vẫn khóc thầm gọi tên tôi.


Mười năm sau…
Thân xác tôi không còn nữa, chỉ còn lại bộ xương cốt.
Người ghét tôi, không còn nhớ mặt tôi nữa, mà chỉ còn nhớ tên tôi một cách mơ hồ.
Người yêu tôi, đôi khi trầm lắng trong giây lát khi nhớ đến tôi. 
Cuộc sống khiến cho mọi thứ dần dần trở nên phai nhạt…
yêu và ghét, sống trên đời, giàu nghèo,

Mấy chục năm sau…
Ngôi mộ của tôi, trải qua bao mùa mưa gió, chỉ còn lại một bãi đất hoang vu.
Người ghét tôi… không còn nhớ tôi nữa.
Người yêu tôi, cũng đã nằm xuống đất.
Đối với thế giới này, tôi đã trở thành hư vô.
Những phấn đấu một đời của tôi, với bao của cải vật chất… 
không thể mang đi thậm chí là một cọng cỏ…
Nhưng ham muốn, theo đuổi một đời của tôi, không thể mang đi một chút hư danh.
yêu và ghét, sống trên đời, giàu nghèo . Kiếp này… cho dù là giàu sang hay nghèo hèn, 
rốt cuộc cũng phải đi đến bước cuối cùng. Đến khi nhìn lại, mới thấy uổng phí một đời, 
tôi muốn khóc, nhưng không thể khóc thành tiếng. Tôi hối hận, nhưng tất cả đã quá muộn.
- Hãy sống một cách thiết thực, đừng vì ánh mắt của người đời, hay tiêu chuẩn đánh giá của bất kỳ ai.
Yêu, hận, tình, thù chỉ tồn tại khi chúng ta còn sống. Trăm năm qua đi chỉ trong một nháy mắt. 
Cuối cùng cũng chỉ còn lại nắm tàn tro… 

April 29, 2016

MỘT CHÚT LAN MAN


Ngẫm lại sự đời, tôi thấy hình như hầu hết chúng ta chẳng bao giờ thực sống. Lúc còn trẻ, ta mơ ước tương lai, sống cho tương lai. Nghĩ rằng phải đạt cái này cái nọ, có được cái kia cái khác mới là sống. Khi có tuổi, khi đã có được cái này cái nọ, cái kia cái khác thì ta lại sống cho quá khứ! Hừm! Nhỏ mong cho mau lớn, lớn mong cho nhỏ lại. Quả là lý thú! Tóm lại, ta chẳng biết quý những giây phút hiện tại.

Một người 60, tiếc mãi tuổi 45 của mình, thì khi 75, họ sẽ tiếc mãi tuổi 60, rồi khi 80, họ sẽ càng tiếc 75! Vậy tại sao ta không nghĩ ta đang ở cái tuổi tuyệt vời nhất của mình lại không yêu thích nó đi, sao cứ phải.... nguyền rủa, bất mãn với nó. Có phải tội nghiệp nó không? Ta đang ở cái tuổi nào thì nhất định tuổi đó phải là tuổi đẹp nhất rồi, không thể có tuổi nào đẹp hơn nữa!

Còn đối với các vị phụ nữ cũng có khi gạt gẫm mình chút đỉnh như đi giải phẫu thẩm mỹ chẳng hạn. Xóa chỗ này, bơm chỗ nọ, lóc chỗ kia. Nhưng nhức mỏi vẫn cứ nhức mỏi, loãng xương vẫn cứ loãng xương, tim mạch vẫn cứ tim mạch... Thân thể ta cứ tiến triển theo một "lộ trình" đã được vạch sẵn của nó, không cần hỏi han ta, không cần biết ta có “chịu” không! Mà hình như, càng nguyền rủa, càng bất mãn với nó, nó càng làm dữ.

Trái lại, nếu biết thương yêu nó, chiều chuộng nó một chút, biết cách cho nó ăn, cho nó nghỉ, biết cách làm cho xương nó cứng cáp, làm cho mạch máu nó thông thoáng, làm cho các khớp nó trơn tru thì nó cũng sẽ tử tế với ta hơn. Từ ngày "thế giới phẳng" thông qua internet, ta còn sống với đời sống ảo. Ta ngồi đây với người nhà nhưng chuyện trò với một người nào khác, cười đùa, nhăn nhó, giận dữ, âu yếm với một người nào khác ở nơi xa. Khi bắt lại câu chuyện với mọi người bên cạnh thì nhiều khi đã lỡ nhịp!

Hiểu ra những điều tầm thường đó, tôi biết quý thời gian hơn, quý phút giây hiện tại, ở đây và bây giờ hơn. Nhờ vậy mà không có thì giờ cho già nữa! Hiện tại với tôi thì không có già, không có trẻ, không có quá khứ vị lai. Dĩ nhiên, không phải trốn chạy già mà hiểu nó, chấp nhận nó, thưởng thức nó. Khi biết "enjoy" nó thì quả có nhiều điều thú vị để phát hiện, để khám phá.

Từ ngày biết thương "thân thể" của mình hơn, tử tế với nó hơn, thì có vẻ tôi... cũng khác tôi xưa. Tôi biết cho thân thể của mình ăn khi đói, không ép nó ăn lúc đang no, không cần phải cười cười nói nói trong lúc ăn. Món gì khoái khẩu thì ăn, chay mặn gì cũng tốt. Cá khô, mắm ruốc gì cũng được, miễn là đừng nhiều muối quá!

Một người bạn tôi mắc bệnh "ăn không được", "ăn không biết ngon" vậy mà vẫn béo phì, đi không nổi, là bởi vì các con thương ông quá, mua toàn sữa Mỹ mắc tiền cho uống! Sữa giàu năng lượng, nhiều chất béo bổ quá, làm sao còn có thể ăn ngon, làm sao không béo phì cho được?

Giá ông nghèo một chút còn hay hơn! Cá kho quẹt, rau muống mà tốt, miễn ông ăn thấy ngon, thấy sướng! Tôi cũng biết cho thân thể của mình ngủ hơn. Ngủ đầy giấc, đủ giấc. Ngủ đủ giấc là cơ hội tốt nhất cho các tế bào não phục hồi, như sạc pin vậy. Sạc không đủ mà đòi pin ngon lành sao được!

Bảy trăm năm trước, Trần Nhân Tông viết: Cơ tắc xan hề khốn tắc miên! (Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền!) trong bài Cư trần lạc đạo, (ở đời mà vui đạo)! Ông là vị vua nhà Trần sớm nhường ngôi cho con, lên tu ở núi Yên Tử, Tổ sư thiền phái Trúc Lâm. Tu hành như vậy mà khi quân Nguyên xâm lấn nước ta, ông liền xuống núi, ra tay dẹp giặc, xong, phủi tay lên núi tu tiếp!

Mỗi người có đồng hồ sinh học của riêng mình, không ai giống ai, như vân tay vậy, cho nên không cần bắt chước, chỉ cần lắng nghe mình. Phương pháp này, phương pháp nọ của người này người kia bày vẽ chẳng qua cũng chỉ để tham khảo, nắm lấy nguyên tắc chung thôi, rồi áp dụng vào hoàn cảnh riêng cụ thể của mình, tính cách mình, sinh lý mình. Phương pháp nào có sự ép buộc cứng ngắc quá thì phải cảnh giác!

Nên nhớ rằng tới tuổi nào đó, tai ta sẽ bắt đầu kém nhạy, mắt bắt đầu kém tinh, đấu óc bắt đầu kém sắc sảo. Tai kém nhạy để bớt nghe những điều chướng tai. Mắt kém tinh để bớt thấy những điều gai mắt. Đầu óc cứ sắc sảo hoài ai chịu cho nổi! Tuy vậy, tai kém mà muốn nghe gì thì nghe được, không thì đóng lại; mắt kém mà muốn thấy gì thì thấy được, không thì khép lại. Thế là "căn" hết tiếp xúc được với "trần". Tự dưng không tu hành gì cả mà cũng như tu, cũng thực tập ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm!

Rồi một hôm đẹp trời nào đó ta còn có thể phát hiện mắt mình chẳng những nhìn kém mà còn thấy những ngôi sao lấm chấm, những lốm đốm hoa trên bầu trời trong xanh vời vợi kia. Nếu không phải do một thứ bệnh mắt nào đó thì đây hẳn là hiện tượng thoái hóa của tuổi già, nói nôm na là mắt xài lâu quá, hết thời hạn bảo hành.

Cái mà người xưa gọi là "hoa đốm hư không" chính là nó. Tưởng hoa đốm của trời, ai dè trong mắt mình! Chính cái "tưởng" của ta nhiều khi làm hại ta. Biết vậy ta bớt mất thì giờ cho những cuộc tranh tụng, bớt tiêu hao năng lượng vào những chuyện hơn thua. Dĩ nhiên có những chuyện phải ra ngô ra khoai, nhưng cái cách cũng đã khác, cái nhìn đã khác, biết tôn trọng ý kiến người khác, biết chấp nhận và nhìn lại mình.

Khi 20 tuổi người ta băn khoăn lo lắng không biết người khác nghĩ gì về mình. Đến 40 thì ai nghĩ gì mặc họ. Đến 60 mới biết chả có ai nghĩ gì về mình cả! Tóm lại, chấp nhận mình là mình và từ bi với mình một chút. Có lẽ như vậy hay hơn cho mình.

December 7, 2015

TRÔI DẠT 10.782KM 14 THÁNG TRÊN BIỂN

Theo Guardian, câu chuyện bắt đầu hôm 18/11/2012, một ngày sau khi bão tới, Alveranga, ngư dân 36 tuổi, cố gắng bình tĩnh và động viên người bạn đồng hành thiếu kinh nghiệm Ezequiel Cordoba, khi cả hai đang cách xa đất liền 80 km, vạch lộ trình về bờ.

Trong khi Alveranga cố gắng điều khiển con thuyền bị hàng trăm lít sóng biển đổ vào, đang chực chìm, thì Cordoba điên cuồng tát nước ra ngoài. Con thuyền dài 7,6 mét, rộng cỡ chiếc xe bán tải, không kính, không đèn, nó hầu như vô hình trên biển. Trên boong tàu là một chiếc thùng to cỡ tủ lạnh, chứa đầy cá ngừ, mahimahi và cá mập mà họ bắt được sau hai ngày. Nếu có thể đưa nó lên bờ đem bán, đủ cho họ sống trong một tuần. Ngoài ra, tàu còn có 70 lít xăng, 16 lít nước ngọt, 23 kg cá mòi khô, 700 cái móc nhỏ, dây thừng, một cây lao, ba con dao, một chiếc điện thoại di động và một thiết bị GPS không thấm nước, đài bán dẫn hai chiều, 91 kg đá lạnh và vài thứ khác.

Họ chống chịu nhiều giờ trên biển, cho đến sáng ngày thứ hai, thì động cơ bắt đầu hỏng. Alverenga bật đài, gọi ông chủ :“Willy! Willy! Willy ! Động cơ hỏng rồi !”

“Bình tĩnh nào, anh bạn, cho tôi tọa độ của anh”, Willy trả lời, từ cảng biển Costa Azul. “GPS hỏng rồi”. “Thả neo xuống”, Willy hướng dẫn. “Chúng tôi không có neo”, Alverenga trả lời. Anh nhận thấy con tàu không có neo từ trước khi khởi hành, nhưng không quan tâm vì cho rằng, mình không cần dùng tới.

“Được rồi, chúng tôi đi tìm anh đây”, Willy phản hồi. “Đến nhanh lên, tôi thực sự đang mắc kẹt ở đây”, Alverenga hét lên. Đó là những lời cuối cùng của anh, trước khi mất tích 14 tháng.

Những con sóng dữ dội không ngừng đập vào mạn thuyền. Alverenga nhận thấy gần 500 kg cá đánh bắt được, chính là thủ phạm khiến đầu thuyền nặng và không ổn định. Không kịp tham khảo ý kiến ông chủ, anh và đồng đội quyết định đổ hết số cá đi. Những con cá tươi thơm mùi máu thu hút đàn cá mập vây quanh, họ phải hết sức cẩn thận, nếu không muốn rơi xuống nước và bị cá mập xé xác.

Họ lại tiếp tục đổ đá và xăng đi. Alverenga xâu 50 cái phao lại, tạo thành một cái neo nổi, giữ thuyển ổn định trên mặt biển. Đến 10h sáng, chiếc đài bán dẫn hỏng nốt. Alverenga dự kiến, cơn bão sẽ kéo dài ít nhất 5 ngày, mà họ đã hỏng tất cả mọi thứ, từ động cơ, đến thiết bị liên lạc vô tuyến, và cả GPS, vào ngay chiều ngày thứ nhất.

Mặt trời lặn, cơn bão tiếp tục hoành hành, trong khi Cordoba và Alverenga run rẩy vì lạnh. Họ lộn ngược thùng nước đá, trốn vào bên trong, ôm chặt lấy nhau để giữ ấm. Thế nhưng, nước biển không ngừng trút lên thuyền, hai người phải thay nhau ra ngoài mỗi 10-15 phút, để tát nước. Mưa bão che lấp bầu trời, cả hai không biết mình đang ở đâu, cũng không thể nhìn lên trời đoán sao tính khoảng cách.

Nước tiểu và thịt sống

Đói bụng, không có móc câu, Alverenga nghĩ ra cách săn cá liều lĩnh. Anh quỳ gối, ép ngực chặt mạn thuyền, đảo mắt canh chừng cá mập, thò một cánh tay xuống ngập nước dụ cá. Khi con cá tới gần, anh đấm mạnh vào mõm, lấy móng tay cắm phập vào da thịt, lôi nó lên thuyền. Cordoba lấy dao xẻ thịt, cắt thành dải nhỏ, phơi nắng cho khô rồi cả hai cùng ăn. Alverenga nhồi đầy miệng thịt sống lẫn thịt khô, không bận tâm về mùi vị. Thi thoảng, họ bắt được rùa biển hoặc cá chuồn.

Rồi nước ngọt cũng hết, Alverenga bắt đầu uống nước tiểu của mình, động viên Cordoba làm theo. Nó có vị mặn, nhưng không đến nỗi khó uống. Chí ít, nó cung cấp thêm chút ít hydrat cho hai người. Alverenga từ lâu biết rằng, uống nước biển rất nguy hiểm. Do đó, tuy rất khát, nhưng hai người không dám uống giọt nước biển nào.

“Tôi đói đến nỗi phải ăn từng mẩu móng tay mình”, Alverenga nói. Anh vớt sứa lên, nuốt chửng cho đỡ đói. “Mới đầu có cảm giác như cổ họng bị đốt cháy, nhưng lúc sau cũng không đến nỗi tệ”.

Lênh đênh 14 ngày trên biển, Alvarenga đang ngồi tựa vào thùng đựng đá thì nghe thấy tiếng lộp bộp. “Mưa rồi”, Alverenga hét lên. Cả hai vội đem chiếc thùng đựng nước ra cọ rửa sạch sẽ, hứng mưa. Sau nhiều ngày bẩn thỉu, uống nước tiểu và máu rùa, cuối cùng, hai người được tắm rửa, uống nước mưa thỏa thích. Họ quyết định sẽ duy trì khẩu phần ăn nghiêm ngặt.

Sau nhiều tuần trên biển, Alverenga và Cordoba trở thành những người nhặt và phân biệt rác cừ khôi. Họ túm lấy và lưu trữ tất cả những chai nhựa rỗng tìm thấy. Thậm chí, họ còn nhặt được một túi nhựa màu xanh, bên trong chứa kẹo cao su và hạnh nhân; hay một nửa cây bắp cải, vài củ cà rốt và một bịch sữa thiu, nhưng vẫn uống.

Mất bạn đồng hành

Sau hai tháng trên biển, Alverenga bắt đầu quen với việc bắt chim, cá, rùa thì Cordoba lại có dấu hiệu suy giảm thể chất và tinh thần. Cordoba bị ốm vì ăn thịt chim sống, anh ta ra một quyết định điên rồ: không ăn thứ gì ngoài uống nước. Cordoba nhanh chóng kiệt sức, không đủ lực đưa chai nước lên miệng. Alverenga đút từng mẩu nhỏ thịt chim, hoặc thịt rùa vào miệng Cordoba, nhưng anh ta cắn chặt răng lại.

Hai người thỏa thuận, nếu Cordoba còn sống, anh ta sẽ tới El Salvador và thăm cha mẹ của Alverenga. Nếu Alverenga còn sống, anh phải trở về Chiapas, Mexico, tìm mẹ của Cordoba.

“Tôi sắp chết rồi”, Cordoba nói trong một buổi sáng. “Đừng nghĩ nữa, ngủ đi một tí”, Alverenga trả lời, nằm xuống cạnh Cordoba. “Tôi mệt quá, cho tôi ít nước”, Cordoba rên rỉ, thở khó nhọc. Alverenga cầm chai nước đổ vào miệng Cordoba, nhưng anh ta không nuốt, người bỗng giật lên từng cơn. Alvereanga hoảng sợ, hét lên:

“Đừng bỏ tôi một mình ! Anh phải chiến đấu, phải sống tiếp ! Tôi phải làm gì nếu thiếu anh ?” Cordoba không đáp, anh đã chết, mắt mở to. “Tôi dựng anh ta lên, cố giữ không cho sóng đánh thi thể khỏi thuyền. Tôi khóc hàng tiếng trời”.

Sáng hôm sau, Alverenga nhìn chằm chằm vào Cordoba ở mũi thuyền, hỏi cái xác : “Cậu thấy thế nào ? Ngủ có ngon không ?” – “Tôi ngủ ngon, anh thì sao ? Ăn sáng chưa ?” Alverenga tự trả lời, như thể đang nói chuyện với Cordoba ở thế giới bên kia. Cách dễ dàng nhất để chống chịu nỗi đau mất đi người bạn đồng hành duy nhất, là giả vờ anh ta không chết.

Sáu ngày sau khi Cordoba qua đời, Alverenga ngồi cạnh, chuyện trò với cái xác trong một đêm không trăng. Đột nhiên, Alverenga bừng tỉnh, bị sốc khi phát hiện mình đang nói chuyện với tử thi.

“Đầu tiên, tôi cọ rửa chân cậu ta. Quần áo cậu ấy vẫn dùng tốt, vì thế, tôi lột chiếc quần soóc và áo phông dài tay ra và mặc vào. Rồi sau đó, tôi đẩy cậu ta xuống nước, ngất lịm đi”.

Vài phút sau, Alverenga tỉnh dậy, sợ hãi. “Tôi biết làm gì một mình đây ? Không ai nói chuyện cùng tôi cả ? Tại sao người chết là cậu ấy mà không phải tôi? Tôi tự dằn vặt.”

Ý chí sống còn và nỗi sợ tự tử (mẹ anh vẫn dạy, những người tự tử không bao giờ được lên thiên đàng) vực anh dậy, tiếp tục tìm cách thoát nạn. Thị lực anh tốt dần lên, nhìn thấy cả tàu chở hàng phía đường chân trời. Anh nhảy lên, ra sức vẫy, nhưng những con tàu như máy bay không người lái, chẳng ai nhìn thấy anh.

Alverenga để mặc cho trí tưởng tượng bay bổng. Mỗi sáng thức dậy, anh đi quanh thuyền, nghĩ rằng mình đang chu du khắp thế giới, thưởng thức những món ăn ngon lành bên cạnh người thân, cách ly bản thân khỏi thực tế ảm đạm.

Khi còn nhỏ, ông nội đã dạy anh cách theo dõi thời gian theo chu kỳ Mặt Trăng. Kiến thức này cực kỳ hữu ích, khi anh cô đơn giữa đại dương. Alverenga nhớ rõ từng kỳ trăng, đếm được 15 kỳ, và thuyết phục bản thân sắp được nhìn thấy thiên đường.

Nhìn thấy thiên đường

Cuối cùng, khi bầu trời đầy chim biển, Alverenga giật mình, phát hiện một hòn đảo nhiệt đới Thái Bình Dương xuất hiện trong sương mù. Anh cứ nghĩ mình bị ảo giác, nhưng không, nhìn kỹ, anh phát hiện đó là một hòn đảo nhỏ, không lớn hơn sân bóng đá, nhìn có vẻ như đảo hoang bởi không có đường xá, xe cộ hay nhà cửa.

Alvereanga đánh liều, dùng dao cắt phao neo thuyền, chấp nhận mạo hiểm con thuyền có thể bị sóng đánh chìm. Khi còn cách bờ 10 mét, Alverenga nhảy xuống, kéo thuyền vào bờ. Một cơn sóng lớn ném anh và thuyền lên bãi biển, úp mặt xuống cát.

“Tôi nắm chặt cát, như thể đó là kho báu”, Alverenga kể lại. Quần áo tơi tả, anh trườn qua một thảm lá cọ ướt sũng, mấy cái vỏ dừa và đám hoa thơm. Anh thậm chí không đứng vững được vài giây.

“Tôi chỉ còn da bọc xương”, Alverenga kể. Hòn đảo nơi Alverenga dạt vào là Tile Islet, một phần của Ebon Atoll, mũi phía nam trong số 1.156 hòn đảo của đảo quốc Marshall, một trong những vùng xa xôi cách biệt nhất Trái Đất. Vượt qua những lùm cây, Alverenga nhận ra, mình đang đứng giữa một con kênh nhỏ nối từ bãi biển đến nhà của Emi Libokmeto và chồng cô, Russel Laikidrik.

“Tôi đang nhìn quanh thì thấy một người đàn ông da trắng”, Emi nói. Cô xay xát và sấy dừa trên đảo. “Anh ta đang la hét, trông có vẻ yếu và đói khát. Tôi chợt nghĩ, người này chắc hẳn rơi từ một con tàu nào đó và bơi vào đây”.


Họ mời Alverenga vào nhà, anh vẽ một chiếc thuyền, một người đàn ông và bờ biển, nhưng rồi không vẽ nữa. Làm sao anh có thể giải thích chuyến trôi dạt hàng trăm km trên biển chỉ bằng vài nét vẽ. Anh hỏi xin thuốc, bác sĩ, nhưng vợ chồng Emi chỉ lắc đầu và cười.

“Mặc dù chúng tôi không hiểu ngôn ngữ của nhau, nhưng tôi cứ mở miệng nói suốt”, Alverenga kể lại. “Tôi càng nói, cả ba càng phá lên cười. Tôi cũng không hiểu lý do họ cười, còn tôi, cười vì mình đã sống”.

Sau khi chăm sóc Alverenga cả buổi sáng, Russel đi thuyền lên thị trấn và cảng biển đảo Ebon để báo chính quyền xin giúp đỡ. Vài giờ sau, một nhóm cảnh sát, y tá, đếnnơi, thuyết phục anh ngồi thuyền để đưa về Ebon chăm sóc.

Trong lúc đó, câu chuyện về Alverenga lan truyền khắp nơi, khởi nguồn từ một bài báo trên AFP đăng hôm 31/1/2014. Phóng viên khắp nơi đổ về đảo Ebon, hy vọng khai thác chuyện giật gân về Alverenga, hoặc cho rằng câu chuyện sống sót của anh là vụ lừa đảo.

Tuy nhiên, kiểm tra lại mã số trên con tàu của Alverenga cho thấy, trùng khớp với con tàu khởi hành hôm 17/11/2012 và biến mất. Đội tìm kiếm cứu nạn Mexico cũng xác nhận, họ đã bỏ cuộc tìm kiếm Alverenga và Cordoba vì bão to và tầm nhìn kém.

Những người đi biển dày dạn kinh nghiệm cũng cho rằng, thương tích trên người Alverenga cho thấy, anh đã phải trải qua quãng thời gian dài trên biển. Đại sứ quán Mỹ tại Marshall cũng công nhận điều này.

Về phía Alverenga, sức khỏe của anh xấu dần đi. Chân sưng vù do mất nước lâu ngày. Qua 11 ngày điều trị, anh mới ổn định, đủ để về quê nhà El Salvador đoàn tụ với gia đình.

Alverenga bị chẩn đoán thiếu máu, gan nhiễm ký sinh trùng, có thể do chế độ ăn thịt rùa và chim biển sống. Alverenga cho rằng, ký sinh trùng có lẽ đã bò lên đầu và tấn công não anh. Anh không thể ngủ sâu giấc, và thường xuyên bị ám ảnh vì cái chết của Cordoba. Ngay khi đủ sức khỏe, anh lên đường tới Mexico, hoàn thành lời hứa gặp mẹ của Cordoba.

Nhiều tháng sau khi về nhà, Alverenga vẫn còn bị sốc. Anh không chỉ sợ nhìn thấy biển, mà còn sợ nước. Khi đi ngủ, anh luôn phải để đèn sáng, và có người bên cạnh. Phải mất đến một năm, Alverenga mới bình thường trở lại.

“Tôi đã phải chịu đói, khát, cô đơn cùng cực, nhưng không tự tử”, Alverenga nói. “Ta chỉ có một cơ hội để sống, vì thế, phải trân trọng nó”, người trải qua hơn 14 tháng phi thường trên biển kết luận.

Xem lại phim "The True Story of Robinson Crusoe" để nhớ thời Trung học tuổi Teen…


August 30, 2015

ĂN VÀ ĐỌC


Thỉnh thoảng chúng ta gặp ở tiệm một vài người Mỹ ngồi ăn phở. Có người cầm đũa khá thạo. Trong số một đôi triệu người Mỹ luân phiên đến xứ này rồi ra đi, những kẻ tò mò tiến xa vào nếp sống Việt Nam tới mức ấy chắc không lấy gì làm nhiều. Các kẻ ấy trở về nước, giữa dăm ba câu chuyện ly kỳ về đất Việt xa xôi kể với bạn bè, có thể múa biểu diễn cặp đũa, có thể nói đến cái mùi lạ lùng của rau quế vừa ăn vừa ngắt từng lá bỏ vào tô phở, đến cái vị ngộ nghĩnh của những tép củ hành nhúng trong nước dùng vớt ra với chỏm lá xanh xanh v.v… Như thế là vượt xa quá những khuôn sáo, những chỗ gặp gỡ thông thường của các du khách rồi. Du khách Tây phương nói về món ăn Việt, bất quá gặp nhau ở món nước mắm, rồi thôi.
Vậy những người Mỹ hiếm hoi nọ đáng khen, về sự hiểu biết rộng rãi.

Tuy nhiên từ chỗ biết ăn phở cho đến cái trình độ am hiểu các đặc điểm, các sở trường sở đoản của từng thứ phở bò, phở gà, phở nước, phở áp chảo, phở tái, phở chín, phở nạm, phở gầu, phở sụn v.v…, còn nhiều cách biệt. Rồi từ chỗ thạo phở cho đến cái tâm tình về phở như của Nguyễn Tuân, lại còn một tầng cách biệt nữa. “Nắm vững” một món ăn — chỉ một món thôi — đâu phải dễ.

Thật vậy, không cứ là khách ngoại quốc, ngay đến người Việt Nam không phải ai cũng bưng tô phở mà ăn như nhau, với những cảm tưởng giống nhau. Một nông dân ở thôn ấp nào đó ngoài Phú Yên, Quảng Ngãi v.v… ăn phở Bắc cũng như ăn hủ tiếu Mỹ Tho, cũng như ăn mì Tàu, nghĩa là hững hờ. Còn người nông dân ở Cà Mau, Rạch Giá v.v… chẳng hạn có thể có sự thiên vị bất lợi cho phở. Người Việt miền Nam chỉ hoan hỉ chấp nhận món phở sau một vài canh cải, tức sau khi đã trút vào tô phở được non nửa dĩa giá sống.

Phở là món ăn phổ biến hết sức rộng rãi từ Bắc chí Nam mà còn thế, huống hồ là những món ăn khác. Mỗi món ăn thường chỉ được sủng ái ở một vùng, hoặc rộng hoặc hẹp. Xơi nó thì ai cũng xơi được, nhưng gọi là tri kỷ, biết đến tận cùng cái ngon của nó, chỉ có thể là người một địa phương. Chả cá, bún thang, là những thứ quí của đất Bắc; từ ngày vào Nam dường như nó lạc lõng, ít ai thấu triệt ý vị của nó. Bún bò, bánh lá, ngày nay lưu lạc khắp nơi; nhưng tôi tưởng tượng ở một góc chợ Trương Minh Giảng, ở một hẻm Bàn Cờ, thỉnh thoảng miếng bánh lá mỏng mà gặp lại một cái lưỡi Huế có phảng phất mùi thuốc Cẩm Lệ nó sẽ mừng rơn. Bỏ một miếng bánh, húp một muỗng bún vào mồm, có phải ai cũng thưởng thức như ai đâu. Giữa món ăn với người ăn phải có sự tương đắc. Khi đã tương đắc, đã cảm thông sâu xa với nhau, người Nam ăn ba khía, ô môi, người Huế ăn cơm hến, người Bình Định ăn mắm cua chua chan bún thấy thấm thía, nồng nàn. Cái mùi vị nồng nàn ấy, kẻ khác không chịu được.

Mỗi món ăn chỉ có một số người thực sự hiểu nó, số người ấy là của một địa phương. Vậy món ăn có liên hệ đến khí hậu địa phương chăng?

Ở xứ lạnh dễ thấy cái ngon trong trong chất mỡ béo, ở xứ nóng dễ rành về các thứ rau, canh. Người Huế ăn cay, một phần hình như cũng vì khí trời ẩm ướt của những mùa mưa dai dẳng. Người miền Nam thích giá sống vì nó giải nhiệt?

Khi đã chuyên ăn một món nào đó, người ta càng ngày càng thành thạo trong việc chọn lựa, sử dụng, người ta tìm thấy ở nó những đặc điểm mà kẻ khác không để ý đến; do đó người ta vượt bỏ, tách rời khỏi quần chúng. Về quả ớt chẳng hạn, chắc chắn đồng bào ở các nơi ít ai theo kịp người Huế trong cách thưởng thức: kẻ yêu ớt không chỉ yêu nó vì cái vị cay, mà còn vì mùi hăng nồng, vì cái tiếng kêu giòn phát ra dưới răng khi cắn nó, lại yêu vì trông nó sướng mắt, cầm nó sướng tay trong giây phút mân mê trước khi đưa lên mồm… Người Huế ngoài cách ăn ớt bột, ớt tương, ớt xắt, ớt giã v.v…, còn thích lối ăn cầm cả trái ớt tươi rắn chắc mà cắn kêu đánh bụp trong miệng thật ngon lành; để cắn, họ chọn ớt xanh.

Nhưng một chuyện khí hậu nhất định không đủ. Cái ăn còn tùy thuộc ở sản phẩm sẵn có của địa phương, ở lịch sử v.v… Ở lịch sử? Nghe thì to chuyện, nhưng chính tại lịch sử mà người Bình Định quen ăn bánh tráng. Thứ bánh tráng Bình Định tìm mua ở Sài Gòn rất khó, vì không thấy bán ở các chợ, chỉ gặp tại một vài nơi ngoại ô hẻo lánh; người Bình Định có những bữa ăn dùng toàn bánh tráng thay cơm, cho nên bánh tráng ở đây có địa vị quan trọng hơn ở các địa phương khác. Đi xa, người Bình Định nhớ bánh tráng như người Việt sang Âu châu nhớ cơm, nhớ bánh cuốn. Như thế có phải vì bánh tráng từng là lương khô dùng trong quân đội Nguyễn Huệ, xuất phát từ Bình Định?

Món ăn còn quan hệ với lịch sử theo cách khác. Thiết nghĩ người Việt Nam đời Trần dùng món thịt cầy không đối diện với dĩa rau thơm giống dĩa rau thơm chúng ta có trước mặt ngày nay. Không phải đột nhiên tự lúc đầu lá mơ đã đi với thịt cầy, rau om đã tìm đến thịt cầy. Tôi chắc thế. Các đấng tổ tiên phải có một thời kỳ mò mẫm, thí nghiệm; có thể các ngài đã thử dùng lá chanh và rau răm ăn với thịt heo chẳng hạn, dùng rau om với thịt gà, dùng lá lốt với thịt cầy chẳng hạn v.v… Cả tập thể tham gia vào cuộc tuyển trạch, mọi người đều có quyền tự do khen chê. Những cái không thích hợp dần dà bị đào thải, các lầm lẫn được sửa chữa, các thiếu sót được bổ túc. Cứ thế, từ thế kỷ nọ sang thế kỷ kia, hết thế hệ này đến thế hệ khác kế tiếp nhau canh tân, rốt cuộc mới đến chỗ toàn mỹ.

Nhưng đã toàn mỹ chưa? Chưa chắc. Hôm nay ta nhắm nháp chả cá, lấy làm đắc ý và hãnh diện về nghệ thuật nấu nướng của dân tộc; tam bách dư niên hậu, có thể cách ấy sẽ bị xem là quá thô sơ. Trước đây năm bảy thế hệ, trên mâm chả cá có thể thiếu thìa là, có thể thiếu chén đậu phụng rang, mắm tôm có thể thiếu giọt cà cuống… Sau đây năm bảy thế hệ người Việt nữa, ai ngờ được sẽ xảy ra thêm những phát kiến gì mới?

Một món ăn, nó cần có thời gian để tự cải tiến; mỗi địa phương cần có thời gian để hoàn thiện các món ăn của mình. Lâm Ngữ Đường chê bai món ăn Tây phương nghèo nàn: nó nghèo nàn như vậy phải chăng vì lịch sử văn minh của Tây phương ngắn ngủi hơn của Trung Hoa? Lịch sử dần dà làm phát triển văn chương, khoa học; nó cũng làm phát triển các món ăn nữa. Nhưng trong khi các kế hoạch gia hy vọng đốt giai đoạn để sản xuất gấp bom nguyên tử, không ai đốt được giai đoạn để cải thiện món phó-mát, để sản xuất gấp một thứ phó-mát mới ngon hơn các thứ cũ. Nghệ thuật khoan thai đủng đỉnh hơn khoa học; nó không chịu sự thúc bách giục giã. Phải chờ đợi. Phải có thời gian cho nó.

Sự hình thành của một món ăn cũng như của một câu ca dao, của một điệu dân ca. Ấy là những công trình tập thể, trong đó mỗi cá nhân đều có sự đóng góp. Thật dân chủ, bình đẳng: mỗi người một lá phiếu. Lá phiếu ở đây là cái lưỡi. Và sự chọn lựa của mỗi người không có lý do gì để thiếu chân thành. Mỗi người chọn lựa bằng cả các tạng phủ của mình, bằng tất cả các đặc điểm thể chất của mình, để cùng nhau đi đến cái kết quả chung trong đó mỗi người của địa phương đều có trách nhiệm: người Huế tìm ra cái hay ho của ruốc, người Nam thấm thía ý vị của nước cốt dừa v.v… Tại sao vậy? Người ta không tìm được câu trả lời dễ dàng. Sự chọn lựa ấy, căn nguyên của nó bắt nguồn từ những cội rễ nào thâm thiết sâu xa trong kiến trúc sinh lý của con người mỗi nơi. Người của mỗi địa phương có một cá tính riêng về tâm lý: có nơi hào hùng, có nơi keo kiệt, có nơi ưu du nhàn dật… Mỗi địa phương cũng có thể có một cá tính sinh lý chăng? Sự dị biệt trong thứ cá tính ấy hẳn là mong manh, tế nhị, tinh vi lắm; khó lòng mà biện biệt phân minh. Tuy nhiên rõ ràng nó đã nêu ra những đòi hỏi khác nhau, những sở thích khác nhau.

Như vậy người ta không chỉ ăn bằng mồm. Con người ăn là ăn bằng cả gốc gác quê hương, bằng phong tục tập quán của mình, bằng cái khí chất riêng biệt của cơ thể mình, cũng như bằng lịch sử, bằng trình độ văn hóa của xứ sở mình. Trong một dĩa đồ ăn, có phản ảnh của khí hậu một miền, của những đặc điểm sinh lý con người địa phương… Và giả sử nói có cả phản ảnh của một phần nào những đặc điểm tâm hồn trong đó có quá chăng? Cái vị ngọt rất thanh của các thứ chè ở Huế gợi nhớ đến nét dịu dàng trong giọng nói và trong tính tình người Huế. Nhất là nếu so sánh thứ nước chấm pha chế rất dịu ở Thừa Thiên với thứ nước mắm thường dùng giữa khoảng đèo Hải Vân cho đến đèo Đại Lãnh, người ta không khỏi nghĩ đến cái tâm lý xẳng xớm bộc trực của người dân Việt từ Quảng Nam Quảng Ngãi trở vào…

Từ chút nước mắm chấm rau chấm thịt mà nói đến tâm hồn con người, e đã quá xa. Tưởng không nên tiếp tục chuyện ăn uống nữa, nếu không muốn lạc vào chỗ viển vông lố bịch.


Nhưng văn chương nghệ thuật lại cũng không khác cái ăn là mấy. Ca dao, dân ca là sản phẩm của một địa phương; và thưởng thức đến tận cùng cái hay ho của nó hình như cũng chỉ có thể là người của địa phương. Nghe một điệu ru à ơi trong đêm khuya chúng ta rung cảm thấm thía đến đáy lòng, tưởng trên thế giới khó có một giống dân nào nghe điệu hát ấy mà cùng có được cái rung động của chúng ta. Họ có nghe chăng bất quá là nghe bằng lỗ tai thẩm âm tinh tế; còn chúng ta nghe bằng cả quãng đời thơ ấu của riêng mình, bằng truyền thống của dân tộc mà mỗi chúng ta thừa tiếp nơi mình…

Hiểu một câu ca dao, một bài thơ cũng vậy. Ngôn ngữ dùng để làm ra thơ văn không thể là cái ngôn ngữ chỉ có nghĩa mà thôi. Tiếng Espéranto không có hy vọng dùng vào thi ca. Nó chỉ có nghĩa, nó không có hồn.
Hồn của ngôn ngữ là cái quái gì ?

Mỗi tiếng nói: non sông, ruột thịt, xanh, vàng v.v…, ngoài cái nghĩa nó ra, còn có khả năng khơi động nơi mỗi chúng ta một rung cảm nào đó. Liên quan giữa rung cảm nọ với ý nghĩa của mỗi tiếng nói thật xa xôi mơ hồ. Bởi vì cùng một tiếng có một nghĩa nhất định, lại có thể gợi lên những xúc động khác nhau tùy mỗi người, mỗi dân tộc. Cái nội dung tình cảm mơ hồ nọ do cuộc sống của tập thể gửi vào ngôn ngữ. Có dự vào cuộc sống của tập thể nào mới cảm thông với cái hồn của ngôn ngữ nấy. Chủ trương thơ thuần túy chính căn cứ vào sức tác động bí ẩn của ngôn ngữ, chứ không phải vào ý nghĩa minh bạch của nó; bởi vậy cái hay mà thơ thuần túy nhằm đạt tới là ở ngoài phạm vi ý nghĩa. Và như thế một kẻ trí thức ngoại quốc, sống ngoài cộng đồng dân tộc Pháp, một kẻ mà những buồn vui sướng khổ trong đời không liên hệ gì đến tiếng nói Pháp, mà hàng ngày những tai nghe mắt thấy cùng xúc cảm trong lòng không dính líu gì đến tiếng nói Pháp…, một kẻ như thế có thể thưởng thức được gì ở thơ Valéry, Mallarmé? có thể thưởng thức sao được như một người Pháp?

Cũng như ăn không chỉ bằng mồm, người đọc không chỉ đọc bằng khối óc suy xét. Người ta thưởng thức cái đẹp của một văn phẩm nước nào bằng cả cái kinh nghiệm chung chạ cùng tiếng nói nước ấy, bằng cả sự gần gũi với nếp sống đã từng phát sinh và không ngớt bồi đắp cái tiếng nói ấy… Nếp sinh hoạt nọ đã thổi sinh khí vào ngôn ngữ kia, làm sao hiểu hết một công trình mỹ thuật xây dựng trên ngôn ngữ kia mà không cần biết đến nếp sinh hoạt nọ?

Nguyên một tiếng nói để sử dụng đã thế, những công trình xây dựng bằng tiếng nói ấy lại còn mang thêm nhiều nét cá tính của từng xứ sở, từng dân tộc.
Âm thanh và cuồng nộ của Faulkner là một tuyệt phẩm của Mỹ. Con người Việt Nam chúng ta biết tìm ở chỗ xó xỉnh nào trong tâm hồn mình cho ra cái “cuồng nộ” tương tự? Sách đọc mà thực tình thấy khoái là khi nào người đọc cảm thấy giữa mình với tác giả có chỗ đồng thanh đồng khí. Đàng này cái “cuồng nộ” nọ chỉ làm ta kinh ngạc.

Người Mỹ, qua các nhân vật của Steinbeck, của Hemingway, của Caldwell v.v…, thấy quả thấp thoáng họ có cái bạo liệt dữ tợn riêng. Những anh chàng mê say vuốt lông chuột, ham đấm đá, đấu bò rừng, những ông cha trông thấy đứa con trai độc nhất vừa tự tử chết lại tiến đến bắn thêm cho nó một phát vào đầu, trông thấy thằng rể da đỏ liền quạt cho nó một loạt đạn dưới chân v.v…, những nhân vật ấy đã mang sẵn ít nhiều cuồng nộ nơi mình; tâm hồn của họ tương ứng với nhau. Gặp nhau họ thích thú, họ khoái trá. Còn chúng ta, không phải là cá mà đòi vui cái vui của cá sao được !

Trái lại, một vài tác giả Việt Nam như Nguyễn Tuân chẳng hạn làm sao được thưởng thức ở một dân tộc hiếu động? Nguyễn Tuân tiền chiến có cái ề à dềnh dang, chuyển ra ngoại ngữ có lẽ là vô duyên mà đối với chúng ta thì là hấp dẫn. Bút pháp ấy biểu hiện một phong thái đặc biệt, quen thuộc ở một lớp người trong xã hội ta, nhắc nhở đến nếp sống của dân tộc ta trong một thời đã qua; ta thấy nó đẹp, người ngoài có thể chỉ thấy là lạ, nếu không là kỳ cục.

Như vậy bảo rằng nhân loại giống nhau quả có giống, nhưng chú ý đến chỗ khác nhau thì cái khác cũng sâu xa lắm lắm.

Hơn ba mươi năm trước, khi những cuốn truyện của Pearl S. Buck ra đời, Âu Mỹ lấy làm ngạc nhiên. Trong bài tựa cuốn Người mẹ, Louis Gillet cho rằng Pearl Buck đã trình bày được chỗ lạ lùng nhất của người Tàu, ấy là họ rất giống người Âu Mỹ.
Xưa kia, phương tiện giao thông hiếm hoi, xứ xứ cách nhau, người người xa nhau, vì vậy dân Tàu cho dân Âu là quiû, dân Âu cho dân Tàu cổ quái: tục lệ kỳ dị, ăn mặc lố lăng, ngôn ngữ líu lo. Cái bề ngoài dị biệt làm cho các dân tộc không hiểu nhau. Sau bước đầu tiên kết thân, người ta thở ra nhẹ nhõm: Thì ra Tàu với Tây cùng là người cả, không ai là quỉ. Cũng hỉ, nộ, ai, lạc… Giống nhau đáo để! Hay nhỉ.
Nhưng rồi gần gũi lâu dài hơn chút nữa, đi sâu vào các hỉ nộ ai lạc ấy, mới lại thấy muôn vàn khía cạnh khác nhau.

Như thế có một thời kỳ để chúng ta phát giác ra chỗ giống, và một thời kỳ nữa để nhận định ra các chỗ khác của nhau.

Một cuốn sách về cơ học, dịch ra tiếng nước nào cũng hiểu được cùng một cách; nhưng một tác phẩm văn nghệ phải tìm đến những tâm hồn đồng điệu. Bạn đồng điệu, tôi ngờ rằng không thể cách ta quá xa trong không gian.

Thỉnh thoảng gặp những người không thích ứng được với những món ăn của đồng bào khác địa phương ở ngay trong nước mình, mà lại tiếp đón niềm nở tấm tắc ngợi khen ngay các hình thức văn nghệ mới lạ từ xa đến, các trường hợp đó đôi khi đáng ngờ.
Cơ thể chọn món ăn riêng cho nó và có những yêu ghét rõ rệt; tâm hồn chọn cái đọc lại dễ dàng hơn sao?

August 15, 2015

GÓP NƯỚC MIẾNG HÚP CHUNG

Nhà có đám giỗ, chị Hương hớn hở nói với đứa với đứa con trai: “Sao không mời con Da-Ni-Phờ đến ăn cho vui? Con bé nầy dễ thương, vui vẻ, và ưa lăn vô bếp lăng xăng làm việc nầy việc nọ. Có khi giành rửa cả núi chén bát, mà mặt vẫn tươi như hoa nở.”

Trân thẳng thắn trả lới mẹ: “Nó ớn thấu óc lối ăn uống nhà mình rồi mẹ à. Nó nói thiếu vệ sinh, dễ lây lan truyền nhiễm bệnh từ người nầy qua người khác.”

“Sao vậy?” Chị Hương tròn mắt ngạc nhiên hỏi.

Trân rùn vai: “Nó nói nhà mình ăn đũa, ngậm vào miệng, rồi gắp thức ăn trong dĩa chung. Dính cả nước miếng, đờm dãi của người khác. Có người mang bệnh truyền nhiễm, không ai biết, rồi lây lan cho mọi người. Dơ dáy.”

Chị Hương gằn giọng: “Dơ dáy? Tụi bây hôn môi, ngoạm mồm, trún nước bọt cho nhau, dễ thường vệ sinh sạch sẽ hơn ăn đũa sao?”

Trân không dám cãi lại mẹ, lảng đi nơi khác. Bố của Trân hạ cuốn sách xuống nhìn bà vợ, rồi cười:

“Tôi đã nói với bà nhiều rồi, đừng dùng đũa gắp thức ăn cho ai cả. Mấy lần bà mút đũa cho sạch, rồi gắp thức ăn bỏ vào dĩa cho con Da-Ni-Phờ, tôi thấy cái mặt nó cứng sượng lại, dáng điệu sợ hãi lắm, cứ nhìn chăm chăm vào miếng ăn bà vừa gắp cho nó, mà không dám đụng đến. Bà gắp cho tôi thì được, chứ đừng nên gắp cho ai cả. Ngay cả bạn bè thân thiết hay con cái trong nhà cũng đừng. Riêng tôi với bà, thì xem như một, tôi không sợ cái dơ của bà, bà không sợ tôi lây bệnh. Đó là chuyện riêng của vợ chồng. Nhưng có lẽ, ngay cả vợ chồng, cũng không nên dùng đũa gắp bỏ cho nhau.”

Chị Hương hừ một tiếng, giọng giận hờn: “Người ta có thương, có quan tâm, mới gắp miếng ngon mời ăn. Nếu không thì mặc kệ. Hơi đâu mà tốn sức!”

Ông chồng chị tiếp lời: “Bà có cái thói dùng đũa sục sạo, moi móc, đão lộn thức ăn trong dĩa, tìm miếng ngon bỏ cho người khác. Cái tâm của bà tốt thật, nhưng hành động đó không hợp với văn minh chút nào.”

“Ưà, tui dã man mọi rợ như vậy đó. Ai chịu thì chịu, không chịu thì thôi!”

“Ai mà dám không chịu bà? Bà bỏ đói cho vêu mỏ ra thì khốn. Nhưng tôi có nhận xét sau đây, nói ra bà đừng buồn giận nghe! Bà học được cái thói đảo thức ăn trong diã của mẹ bà. Mỗi lần về thăm ông bà cụ, trong bữa ăn tôi ớn lắm. Có lần ăn thịt gà bóp rau răm, mẹ dùng tay bốc và xé thịt bỏ vào chén tôi. Nhìn mười ngón tay của mẹ, móng dài, đóng khớm đất đen ngòm. Tôi cũng ớn lạnh. Mắt tôi muốn nổ đôm đốm. Tôi cứ hốt hoảng bảo xin mẹ để cho con tự nhiên, trong nhà cả mà, con đâu dám khách sáo. Nhưng mẹ cứ bốc bỏ thêm vào chén tôi. Tôi biết đó là tình thương, là lòng tốt của mẹ dành cho con rể, không thể phụ lòng mà từ chối, không đổ đi được, sợ mẹ buồn. Tôi nín thở nhắm mắt mà nuốt trỏng, không dám nhai, nó cứ nhờn nhợn trong cổ, nuốt hoài không xuống. Cứ nghĩ phải ăn các thứ vi khuẩn, vi trùng, sán lãi, chất dơ bẩn dính trong mười cái móng tay đen điu đó, không nổi gai ốc sao được. Chúng ta phải can đảm mà công nhận cái chưa đúng, lối sống thiếu vệ sinh của mình. Tìm cách cải tiến sửa đổi cho hợp với thời đại văn minh hơn. Nhiều lần tôi đề nghị ăn đũa hai đầu như thời xưa mấy người đi kháng chiến chống Pháp trong bưng biền, mà không ai chịu.”

Bà Hương cười chế diễu: “Ăn đũa hai đầu văn minh lắm hay sao! Mấy người đó, ở trong rừng đặt bày chuyện vệ sinh, khi về thành, có còn ai dùng đũa hai đầu nữa đâu. Hai đầu đũa đều dính dơ, dễ quệt vào áo quần. Khi muốn tạm gác đũa cũng không được, không biết gác vào đâu. Thêm lúng túng vụng về. Tôi nhớ nhiều lần ông đề nghị để thêm vài ba đôi đũa chung trên mâm cơm, để cả muỗng chung vào các dĩa thức ăn, khi gắp, thì dùng các thứ đũa muỗng chung đó. Thế mà ngay chính ông, cứ lẫn lộn, cầm đũa chung mà ăn, dùng đũa riêng mà gắp, lẫn lộn nhau, được năm ba hôm, phiền phức quá, rồi cũng dẹp. Chính ông phá chứ không ai cả.”

Ông chống bà rùn vai cười gượng: “Đúng. Tôi cứ lẫn lộn mãi vì quen thói cũ. Nếu chúng ta cứ tập lần lần, kiên nhẫn theo, rồi thành quen và sẽ không lẫn lộn nữa. Cái gì cũng phải tập, thói quen mấy chục năm từ ngày còn thơ ấu, đâu thể bỏ ngay được?”

Ông chồng bà Hương thở một tiếng rất dài, tằng hắng rồi nói:
“Cách ăn uống ở quê tôi còn thiếu vệ sinh hơn nhiều. Một lần tôi về thăm, được mời cơm chiều. Chiếu trải trên giường, mâm cơm có hai tô canh, một dĩa rau luộc lớn, một tô nước chấm bằng mắm nêm pha loảng với ớt cay, tỏi bằm, thêm một dĩa mắm cà vun. Quanh mâm cơm có tám người, hai ông bà nội, hai vợ chồng, ba đứa con, và tôi. Đường xa, đói bụng, nhìn mâm cơm tuy thanh đạm, nhưng tôi đã cảm được cái ngon trong tô canh, trong diã rau luộc và tô nước chấm cay xè. Cả nhà, ai cũng đua nhau ăn mau như vũ bảo. Mọi người dùng đũa gắp rau, rồi nhúng vào chén nước chấm chung, quậy quậy đũa, rồi đưa thẳng vào mồm. Thỉnh thoảng có người đang nhai nhồm nhoàm cơm đầy trong miệng, cầm tô canh lên húp một tiếng ‘rột’, rồi bỏ xuống, người khác bắt chước, cầm tô húp theo. Tô nước chấm hòa đủ nước miếng của mọi người trong nhà qua đôi đũa, càng ngày càng loảng và nhạt ra. Tôi đi đường xa, tuy bụng đói, nhưng cũng ngại ngần, không dám ăn rau luộc, không dám chan canh, chỉ khười khười mấy trái mắm cà, vì món nầy ít bị những đôi đũa xáo trộn.”

Ngưng một lát, ông chồng nói tiếp: “Đừng hỏi tại sao không chia cho mỗi người một chén nước chấm riêng. Nhà nghèo, chén đâu có nhiều mà bày ra. Dù nếu có được chén, cũng không thể đủ nhiều nước chấm để chia riêng cho từng người vài muỗng. Bởi thế, khi trong nhà có người bị bệnh truyền nhiễm thì nó lây lan vô tội vạ. Rán mà chịu. Nhưng thật ra, thì không biết làm sao hơn. Biết đâu đó cũng là một cách chủng ngừa lạc hậu nhưng lại hiệu nghiệm.”

Anh con trai tán thêm: “Khi nào đi ăn tiệc, con tránh ngồi chung bàn với ông Tư, dì Sáu, chú Tám. Mấy người nầy ăn uống tự nhiên, dễ dàng. Cứ dùng đũa đào bới lật qua lật lại thức ăn trong dĩa, gắp miếng nầy lên, bỏ miếng kia xuống, cho đũa chạy rong từ dĩa nầy qua dĩa khác để tìm gắp những miếng ăn mà họ vừa ý. Có mấy người khách chung bàn cứ nhíu mày, mắt theo dõi chăm chăm các đôi đũa đang sục sạo, có lẽ để tránh các nơi thức ăn đã bị đũa người khác nhúng vào rồi. Con thì cứ cười cười, quan sát nét mặt bất bình, không vui của những người sợ, và cái hớn hở thản nhiên của người đang dùng đũa bới đào chọn lựa, tìm được miếng ngon, thấy mà thương. Bác Ngô nói với con rằng, thường chỉ ăn được mấy miếng đầu tiên, khi những đôi đũa dơ dáy chưa đào xới diã thức ăn. Sau đó, bác gác đũa, ngồi nói chuyện vui. Bởi thế, mỗi lần phải đi dự tiệc tùng, bác bèn ăn cơm nguội trước ở nhà cho lưng lửng bụng mới ra đi. Bác nói tiếp, có thể người ta sạch sẽ vệ sinh hơn bác, nhưng bác không muốn ăn nước bọt, uống đờm dãi của người khác.”

Bà Hương trừng mắt gắt: “Thôi, thôi, mẹ không muốn nghe cái lối nói thiếu tử tế đó. Việc chi mà kêu là uống đờm dãi của người khác, nghe không lọt tai. Nên ăn nói cho thanh lịch, tử tế hơn. Ông ấy đâu có vệ sinh văn minh chi hơn ai mà bày đặt chê bai.”

Ông chồng bà Hương thấy vợ nổi cáu, quay qua nháy mắt với anh con trai, và hạ giọng nói riêng với nó:
“Lần nọ ăn tiệc, ba ngồi gần bà chị hàng xóm cũ. Bà nầy quen thân từ nhỏ. Ngồi gần nhau, bà vui mừng nói chuyện tíu tít. Bà cho biết mới bị bệnh cúm xong, chưa lành hẳn, lâu lâu bà hắt xì nhảy mũi, lấy khăn xịt mũi xì xì, và ho sù sụ. Ba cũng sợ lây bệnh lắm, nhưng đành phó mặc cho Trời, và cầu sao đừng bị lây. Chị em lâu ngày gặp lại nhau, dù về nhà có bị bệnh, cũng đành chấp nhận. Nhưng chị cứ dùng đũa của chị, gắp thức ăn bỏ vào chén của ba mãi. Ba cứ van lơn cầu khẩn chị để cho ba tự nhiên, ưa ăn món nào thì sẽ tự gắp. Nhưng chị không chịu, cứ gắp bỏ cho ba hoài. Ba buồn lắm, nhưng không biết làm sao. Thấy dĩa thức ăn của ba cứ đầy vun, chị hỏi sao không ăn, ba ngại ngần giả vờ nhăn mặt, nói rằng bỗng nhiên nghe đau quặn trong bụng. Rồi ba chỉ uống nước cho đến khi tiệc tàn.”

Anh con trai cười thích thú kể cho hai ông bà nghe: “Ba mẹ có biết không, thằng James nó nói ăn lẩu là “góp nước miếng húp chung”. Mọi người đều gắp tôm cá thịt, rau, nhúng vào nồi, nhận chìm rau, quậy vục, chờ sôi, thọc đũa riêng vào mà vớt, mò, đôi khi lại dùng cả muỗng riêng mà múc nước húp, rồi cho vào chén. Mọi người đều cùng làm một động tác như nhau, không ai ngán ai lây truyền bệnh hoạn. Không biết nồi lẩu sôi có giết hết được các loài vi khuẩn, vi trùng hay không. Bởi thế, khi có ai mời di ăn món lẫu, nó thẳng thừng từ chối ngay, con cũng thế. Con ngán nhất những bữa cơm chung, khi có người kêu canh chua cá bông lau, nghe đề nghị là con can ngay. Vì cũng như ăn lẩu, mọi người vui vẻ thọc đũa vào tô canh mò, vớt cá ra dĩa, rồi thọc đũa riêng vào mà dày xéo xâu xé con cá. Có lẽ họ nghĩ nước mắm mặn cũng đủ giết chết vi trùng, vi khuần rồi chăng? Bởi vậy, khi nào ăn lẩu, ăn canh chua là không có con.”

Chị Hương tiếp lời anh con trai: “Người mình ăn đũa, dù cho là thiếu vệ sinh, nhưng đã chết ai đâu mà ầm ĩ?”

Ông chồng chị đưa tay ngắt râu ngứa, rồi từ tốn nói: “Có chắc chưa chết ai không? Thế mà thống kê cho biết, chỉ tại Hoa Kỳ thôi, số người bị lây nhiễm qua đường miệng do ăn uống hàng năm có đến gần 50 triệu người, mà 130 ngàn người phải đưa vào bệnh viện, và chết hơn ba ngàn người. Còn Việt Nammình không có thống kê, cứ lặng lẽ truyền bệnh, âm thầm mà chết. Tôi nghĩ rằng, sở dĩ người Việt Nam mình đông đảo người bị bệnh gan, là hậu quả của ăn đũa. Đôi đũa, gây đại họa, đôi đũa bí mật giết người.”

Chị Hương đã yếu giọng: “Chi đến nỗi bi thảm đến thế? Dễ chừng những xứ không ăn đũa ít bị bệnh gan hơn chăng?

Anh con trai xen vào: “Ba nói đúng đó mẹ à. Bố mẹ của bạn con, mười người chết, thì có đến năm sáu người chết vì bệnh gan, chai gan, ung thư gan, bệnh gan B, bệnh gan C. Rồi mới đến bệnh tim, ung thư phổi, tử cung, ruột. Bác Sáu nói rằng, không hiểu sao những người hay về Việt Nam chơi, khi trở lại Mỹ, thường bị bệnh gan mà chết. Nói thế thì có lẽ cũng không đúng hẳn, không lẽ chỉ họ chết mà người bên Việt Nam mình không sao?”

Chị Hương lên giọng: “Đôi đũa cũng được xem như là một phát minh quan trọng của loài người. Là một bước tiến của nền văn minh cổ đại. Dùng đũa, có nhiều điều kỳ diệu. Còn bao hàm một cả triết lý của đông phương. Đó là nguyên lý âm dương, ngũ hành, kết hợp giữa thế động và thế tĩnh, động là chiểc đũa trên di động, tĩnh là chiếc dưới nằm yên. Đũa tiện dụng, có thể đào, bới, kẹp, lùa, xắn, cắt, xé, phân nhỏ, xiên, đè, quẹt, hất, giữ. Chỉ đôi đũa thôi, nó còn đa năng hơn hai ngón tay, hơn con dao, hơn cả muỗng nĩa. Đũa chỉ không gắp được chất lỏng mà thôi. Có lẽ vào thời xa xưa nào đó, khi còn ăn lông ở lỗ, tổ tiên chúng ta đã dùng que, nhánh mà khều thức ăn nướng trong lửa nóng. Ban đầu dùng một thanh, sau đó dùng hai thanh mà gắp, thấy thuận tiện, nên đôi đũa được phát sinh. 

Cũng có học giả cho rằng, loài người bắt chước những con chim mỏ dài gắp cá mà làm nên đôi đũa. 

Khi tay dơ dáy, dính đầy bùn đất, không muốn bốc thức ăn đưa lên miệng, dùng đũa là giải pháp tốt nhất.” - Ngưng một lúc, chị nói tiếp - “Dùng đũa, còn vệ sinh hơn dùng tay mà bốc như cách ăn của người Ấn Độ, Trung Đông. Đang ăn, ngứa đầu đưa tay lên gãi tóc, ngứa mông thọc tay vào quần gãi, rồi cũng bàn tay đó, bốc thức ăn cho vào miệng. Ăn đũa không rườm rà như ăn bằng dao, nĩa, muỗng của người Âu Châu. Người Nhật, người Hàn cũng dùng đũa, họ bày đặt ra những quy định riêng khá nghiêm ngặt khi sử dụng đũa, cũng bảo đảm được phần nào vệ sinh trong khi ăn chung.”

Anh con trai góp chuyện: “Con nghe chú Tú kể rằng, thời mới được tàu Nhật vớt trong khi vượt biển. Đến Nhật tình cờ gặp được người bạn cũ vào thời du học tại Mỹ trước đây. Được bạn mời cơm nhiều lần, và chú đã phạm phải nhiều sai sót khi dùng đũa. Vì người Nhật đã đưa nghệ thuật ăn đũa thành một thứ văn hoá, với nhiều quy định chặt chẽ. Chú cứ gắp thức ăn từ dĩa, lia lịa đưa thẳng vào miệng. Chủ nhà vì lịch sự không nói, nhưng có vẻ không bằng lòng. Trong khi đang ăn, nhiều lúc chú tạm gác đũa qua chén. Làm chủ nhà tròn mắt ngơ ngác. Với người Nhật, đây là một hành động vô phép, xúc phạm đến người nấu ăn, ý muốn nhắn rằng, đồ ăn dở như hạch, hay là tôi cóc cần các thức ăn nầy.

Có khi chú đã dùng đũa đâm xiên vào cục thịt, cũng là một hành động vô lễ, giống như thử xem thức ăn đã nấu chín hay chưa. Sau nầy, chú đọc sách, học được nhiều quy tắc trong khi dùng đũa của người Nhật. Ví như không được ngậm đũa trên miệng, không được dùng đũa đề chuyền thức ăn cho nhau, giống hành động gắp tro xương người chết. Không cắm đôi đũa vào tô cơm, đũa chỉ được cắm vào tô cơm cúng người chết mà thôi. Cũng không được dùng đũa để chuyển dịch tô chén trên bàn ăn. Không được nhảy đũa từ món nầy qua món kia. Không mút đũa. Không dùng đũa khoắng trong tô canh. Khi gắp món ăn, gắp từ miếng nằm trên dần xuống miếng dưới, chứ không đào bới tìm miếng ngon vừa ý. Kể ra những quy tắc đó, có nhiều phần đúng với phép vệ sinh, nhưng cũng có nhiều cái mang nặng tính cách quy định không cần thiết. Nếu ăn đũa theo người Nhật, cũng bớt được phần nào truyền nhiễm bệnh từ nước miếng khi ăn chung.”

Sau khi pha cho chồng và con hai ly nước trái cây, chị Hương lục lọi trong tủ đựng các dĩa phim, rồi bảo sẽ cho chồng xem nghệ thuật cao siêu của người sử dụng đũa thuần thục. Trên màn ảnh truyền hình hiện lên một kiếm khách xứ Phù Tang, đầu đội nón rê xùm xụp, mang áo tơi lá, trông tơi tả nhếch nhác như một kẻ ăn mày, khệnh khạng bước vô quán, xem như chung quanh không còn ai. Lặng lẽ nâng cốc cạn rượu. Bỗng từ phía bàn kia, có người ném một ‘ám khí’ bay vụt thẳng vào mặt kiếm khách. Không né tránh, không vội vàng, kiếm khách cầm đôi đũa lên, gắp được miếng ám khí đang bay, vụt hất ngược lại, địch thủ thét lên một tiếng đau đớn mà ngã lăn quay ra chết. Rồi cũng đôi đũa đó, gắp lia lịa giết bọn ruồi nhặng đang bay vo ve trên dĩa thức ăn.

Anh chồng chị Hương vỗ đùi cười vang mà nói: “Xạo gần bằng chuyện đội phụ nữ anh hùng Thanh Hóa dùng cù ngéo tre móc rớt máy bay ‘Con Ma’ bắt giặc lái Mỹ.”

Chị Hương hỏi chồng: “Ngày nay văn minh, cả thế giới như đã thu hẹp lại. Hiểu biết và văn hóa phổ biến khắp nơi, thì tại sao các dân tộc ăn bốc không biết cải thiện, mà dùng dao nĩa, dùng đũa? Không biết dân Ấn Độ ăn bốc có vục tay vào tô cà ri mà thay muỗng, đưa lên miệng húp sồn sột, rồi mút và liếm bàn tay hay không? Có lẽ là không. Có thể họ đổ ra tô, diã của họ, rồi chấm mút chăng?”

Chồng chị Hương thong thả: “Nghe đâu ăn bốc, theo quy định, chỉ được bốc bằng các ngón của tay mặt mà thôi, tay trái được nghỉ ngơi, có lẽ vì tay trái chỉ xử dụng để làm những việc dơ dáy. Món ăn nào bị bàn tay trái của người khác đụng vào, thì xem như đã bị ô nhiễm, không ai dám đụng đến nữa, phải bỏ đi. Người ta khinh bỉ người ăn bằng tay trái, bị xem là hạ tiện, bất lịch sự. Trong truyện ‘Ngàn Lẻ Một Đêm’ của dân Ả Rập có kể chuyện một thương gia giàu có, vì ăn tỏi hôi tay, nên bị người tình là bà hoàng, chặt mất bàn tay mặt, phải dùng tay trái trong lúc ăn, ông ta bị khinh bỉ, hất hủi, miệt thị.

Khi bốc những thức ăn rời rạc như cơm, đậu, thì chúm các ngón tay mà vít lên, rồi lật ngữa bàn tay, để thức ăn vào giữa bốn ngón, sau đó dùng ngón tay cái mà lùa vô miệng. Không để thức ăn trong lòng bàn tay. Không bốc thức ăn từ dĩa đưa thẳng vào miệng. Ăn quen thì cũng gọn gàng, không bôi tèm lem vào râu ria, môi miệng.”

“Ăn bốc có gì hay mà không thay đổi nhĩ?” Chị Hương hỏi vẩn vơ.

Trân, con trai bà Hương trước đây có cô bạn gái người Ấn Độ, hay lui tới và định ‘kết’ với cô nầy, nên đã tìm hiểu, bèn giải thích cho mẹ:

“Ăn bốc cũng có cái triết lý cao siêu riêng của nó, chứ không phải là dã man, chưa văn minh, chưa biết dùng đến đũa hay dao nĩa. Họ quan niệm rằng, ăn bốc là một phối hợp kỳ diệu của ngũ hành với hệ thống thần kinh não bộ, nối liền với hệ thống bộ tiêu hoá, có nhiều ích lợi dinh dưỡng cho đời sống. Họ quan niệm năm ngón tay hàm chứa năng lực ‘ngũ hành’. Ngón cái là tiêu biểu cho lửa, ngón trỏ là khí, ngón giữa là trời, ngón đeo nhẫn là đất, ngón út là nước. Nếu mất thăng bằng của ‘ngũ hành’ nầy, thì dễ sinh bệnh hoạn. Khi ăn bằng tay, bốc bằng năm ngón, thì năm thứ năng lượng tiềm tàng nầy đi theo thức ăn mà vào cơ thể, làm cho thức ăn thành một món thuốc, chữa lành các bệnh hoạn, tăng sinh lực cho các vùng yếu đuối của cơ thể. Khi bốc bằng tay, thì cái xúc giác đưa tín hiệu lên não bộ, vào hệ thống kinh mạch, nên bao tử biết để đón nhận, và chấp nhận, tiết ra những dịch vị thích ứng, cho nên thực phẩm dễ tiêu hoá hơn. Mấy ngón tay cũng là cái nhiệt kế đo lường độ nóng lạnh của thực phẩm, để khỏi phỏng miệng la làng.”

Chị Hương cười: “Bày đặt! Tưởng tượng! Có chi chắc là nước, lửa, trời, đất, khí nằm trên năm ngón tay? Người ta tưởng rằng, ăn dao nĩa là văn minh và thuận tiện nhất. Không hẵn. Trước tiên, phải cho mỗi người một bộ. Dao nĩa cũng không thuận lợi bằng đôi đũa. Phở mà ăn bằng nĩa thì bất tiện lắm. Không thể nào câu sợi phở lên, cũng không thể quấn vòng vòng như ăn mì sợi, nó tuột mất. Thử xem, khi muốn gắp cục xương, dùng đũa vẫn dễ dàng hơn dùng nĩa, cục xương nằm chênh vênh trên cái nĩa, rất dễ rơi rớt ra bàn, văng vào áo quần người khác. Ăn bằng dao nĩa, phải phối hợp với ăn bốc. Như ăn bánh mì, họ phài dùng tay mà xé, ăn gà nướng, cũng bốc bằng tay. Nếu dùng đũa, thì không cần phải bốc bao giờ.”

Trân kể cho bố mẹ nghe rằng, sở dĩ con Da-Ni-Phờ không dám đến nhà ăn nữa, vì năm ngoái, nó đi du lịch bên Việt Nam với bạn. Chúng nó nghe nói thức ăn của các bà bán hàng rong rất ngon. Chúng ăn bún ốc. Ăn mỗi đứa ba tô ngon lành. Khi ăn thì chúng không để ý. Khi thấy chị hàng rong rửa tô trong một cái chậu nước nhỏ, và lau bằng cái khăn ướt ngã màu đen điu, mà trước đó nó thấy đàn ruồi bu đen, chạy nhảy trên khăn. Nó chợt nhận ra chậu nước đó đã rửa cả hàng chục cái tô của hàng trăm thực khách, bao nhiêu dơ dáy đều gom lại trong đó hết. Nó nghe dờn dợn trong cổ họng, rồi quay ra, kê đầu vào gốc cây mà nôn thốc nôn tháo ra hết. Nó tởn, không dám đụng đến các gánh hàng rong nữa. Sau đó, con Da-Ni-Phờ còn thấy tận mắt các bà bán hàng móc túi thối tiền, những tờ đen điu bèo nhèo dơ dáy, rồi cũng dùng bàn tay trần đó, bốc thịt, bốc rau, nhón tiêu hành, thả vào các tô chén cho thực khách ăn. Nó khiếp vía từ đó.

Chị Hương nói với Trân: “Con cứ kêu con Da-Ni-Phờ đến ăn đám giỗ cho vui. Nói cho nó biết, sẽ cho nó một dĩa riêng thức ăn, không chung đụng với ai cả. Con bé nầy dễ thương vui vẻ. Mỗi xứ có cái văn hoá riêng. Ai cũng tự hào về văn minh của mình. Đừng ai chê ai. Ăn bốc cũng tốt, ăn bằng dao nĩa cũng hay, nhưng tốt và tiện nhất là ăn đũa như chúng ta.”

Trân tiếp ý mẹ: “Thế sao chúng ta không phối hợp giữa dao nĩa, và đôi đũa mà ăn uống cho vệ sinh? 

Có đũa muỗng riêng, đũa muỗng chung, không ai ngại ai. Như thế thì có vệ sinh hơn không. Ngày nay, đũa muỗng cũng rẻ rề, mua bao nhiêu cũng có. Cứ tập dần, cái gì hay thì theo, cái gì không tốt thì bỏ đi.”

Chị Hương nghĩ ngợi một lúc, vui vẻ nói: “Mẹ tán thành ý kiến của con. Kể từ ngày mai, sẽ thi hành. Trong bữa ăn ai vi phạm sẽ xử phạt bằng tiền. Mẹ chắc Ba con sẽ bị phạt dài dài đó. Phạt mãi, sợ tốn tiền, thì sẽ tuân thủ mau.”

Ông chồng chị quay lại nói lớn: “Ừ, ừ, để xem ai bị phạt nhiều hơn ai cho biết. Bà cứ chê tôi hoài!” ./.

August 3, 2015

HÀ NỘI NGÀY NAY



Hà Nội mùa sang thu, những hàng cây soi bóng mặt hồ, những con đường rợp bóng cổ thụ, thi thoảng trút lá theo con gió mùa… Một Hà Nội mềm mại và huyền nhiệm khí trời đầu thu. Thế nhưng đó chỉ là câu chuyện của ngày hôm qua, của những ai còn nặng lòng với Hà Nội cũ. Một Hà Nội mới với diện mạo lạ lẫm đang phủ dần lên Hà Nội xưa. Hà Nội của phở mắng cháo chửi, Hà Nội của những công viên cây xanh lổ chổ vết thương tâm hồn của dân oan, Hà Nội của hàng ngàn cây xanh chảy máu…

Hà Nội trở nên vô hồn…

Với người Hà Nội, cây xanh và bờ hồ là chất liệu không thể thiếu để làm nên gương mặt Hà Nội. Người ta ví cây xanh như mái tóc huyền hoặc và bờ hồ như đôi mắt sâu thẳm của người đẹp Hà Nội. Đáng tiếc là bờ hồ đang hẹp dần và cây xanh cũng bắt đầu bị kẻ xấu nhòm ngó, thành phố trở nên xa lạ trong mắt những người yêu thành phố ngàn năm này.

Ông Luật, một cư dân lâu năm ở quận Hoàn Kiếm, Hà Nội chia sẻ:“Các phố thì người ta bảo trồng cây gì đó, hình như là mỡ. Nhưng trồng thì trồng, làm sao bằng hồi xưa được, toàn cây cổ thụ, cây cổ thụ phải đẹp hơn chứ. Báo chí cứ nâng quan điểm lên chứ, nào là đẹp, đường xá thông thoáng…”
Theo ông Luật, Hà Nội đối với ông là một cái nôi, trong đó gồm cả nôi văn hóa, kinh tế và chính trị suốt cả hàng ngàn năm nay. Mỗi dấu tích trên thành phố Hà Nội đều mang bóng dáng lịch sử và văn hóa. Những bờ hồ, những con đường, những ngôi chùa, những bộ trang phục và nếp ứng xử thanh lịch đều cho thấy một Hà Nội ngàn năm.

Thế nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, Hà Nội trở nên bừa bộn, nham nhở và trông chẳng còn là một Hà Nội. Sở dĩ phải nói đến mức độ như vậy bởi quá trình qui hoạch đô thị đã đi từ lỗi này sang lỗi khác, xe cộ tấp nập nhưng đường sá lại không đáp ứng được với lưu lượng xe hiện có. Thay vì ngành giao thông sẽ điều tiết, mở rộng các luồng giao thông ra vùng ven để giữ một Hà Nội xưa yên tĩnh và cổ độ, người ta lại nghĩ đến chuyện mở rộng đường phố Hà Nội.

Theo ông Luật, không có sai lầm nào giống sai lầm nào và đương nhiên quyết định mở rộng những con đường trong lòng phố cổ để theo kịp với nhịp sống hiện đại là một sai lầm quá cơ bản. Điều này thể hiện tầm nhìn ngắn ngũi của nhiều nhà hoạch định chính sách trong bộ máy nhà nước. Và hàng ngàn ngôi nhà trong khu phố cổ cũng như cây xanh trên đường phố Hà Nội rơi vào tầm ngắm của các nhà hoạch định vô lương tâm này.

Các phố thì người ta bảo trồng cây gì đó, hình như là mỡ. Nhưng trồng thì trồng, làm sao bằng hồi xưa được, toàn cây cổ thụ, cây cổ thụ phải đẹp hơn chứ. Báo chí cứ nâng quan điểm lên chứ, nào là đẹp, đường xá thông thoáng


Ông Luật nhấn mạnh rằng phải nói đây là những nhà hoạch định vô lương tâm, không có tinh thần cộng đồng. Bởi nếu có tinh thần cộng đồng thì Hà Nội đã không rơi vào bài toán hóc búa như hiện tại. Nghĩa là những nhà hoạch định có hai phương án để lựa chọn: Hoặc là Hà Nội trở nên huyền nhiệm, đẹp và có văn hóa; Hoặc là Hà Nội ra sao cũng mặc kệ nhưng các nhà hoạch định có tiền đầy túi.

Và đương nhiên phương án thứ hai là phương án của những kẻ vô lương tâm. Rất tiếc là các nhà hoạch định, qui hoạch thành phối đã chọn phương án vô lương tâm để xử sự với thành phố ngàn năm tuổi này. Ở lựa chọn thứ hai, vừa cho ra một lượng gỗ lớn để có tiền tư túi, vừa tạo ra được một sự hỗn độn về đền bù, giải tỏa và quĩ đất tiềm năng để bán sau này.

Khi cây xanh bị chặt bỏ, lượng gỗ đi về đâu? Câu hỏi này chưa bao giờ được trả lời minh bạch. Trong khi đó, hàng chục ngàn cây xanh mới trá hình mang vào trồng trong thành phố khiến cho thành phố trở nên xấu xí và nhặng xị. Khi qui hoạch các con đường, lượng tiền đền bù hàng trăm ngàn tỉ, đã chi cho nhân dân được bao nhiều đồng? Câu hỏi này cũng không có câu trả lời. Và khi các quĩ đất vàng trong thành phố được bán, có bao nhiêu người Hà Nội gốc còn trụ nổi nơi này với giá đất cao ngất? Câu hỏi này vô phương cứu chữa.
Và đặc biệt, những bờ hồ trong thành phố, từ Hoàn Kiếm đến Thuyền Quang, Hồ Tây, Hồ Trúc Bạch… Theo ông Luật là những hồ nước xanh như đôi mắt người đẹp Hà Nội đã bị ô nhiễm nặng, bị người ta xây dựng nhà hàng, quán xá đủ các loại và lấn chiếm lòng hồ quá nhiều nhưng chẳng thấy ai bị động đến, chỉ có hồ là tổn thương nặng nề theo thời gian.

Sông Hồng-Sông Hồng, đoạn chảy qua nội thành Hà Nội...Rác thải, xác động vật chết bị vứt đầy trên mặt sông. Ảnh chụp tại chân cầu Nhật Tân (VOV).

Họ ăn uống rồi thả đồ trên hồ luôn, từ thức ăn, đại tiện, tiểu tiện, nó thả thẳng xuống hồ chứ không xử lý gì hết. Đương nhiên những người kinh doanh đó phải có thế lực chứ không có thế lực thì làm sao mà làm được

Những mặt hồ thương tật

Một cư dân Hà Nội khác, tên Lủng, ở quận Ba Đình, buồn bã chia sẻ thêm: “Nói về diện tích thì các hồ hẹp hơn hồi xưa nhiều, nước thì ô nhiễm nặng nề. Bây giờ các hồ được kè rồi nên dân không lấn chiếm để xây nhà được nữa, lấn thì lấn hồi xưa rồi. Bây giờ lấn là mấy cái thuyền, nhà hàng nổi trên hồ đó, đó cũng là một hình thức lấn chiếm mặt nước trên hồ để kinh doanh. Họ ăn uống rồi thả đồ trên hồ luôn, từ thức ăn, đại tiện, tiểu tiện, nó thả thẳng xuống hồ chứ không xử lý gì hết. Đương nhiên những người kinh doanh đó phải có thế lực chứ không có thế lực thì làm sao mà làm được.”

Theo chị Lủng, hiện nay, mặc dù các bờ hồ ở Hà Nội như Hồ Tây, hồ Thuyền Quang, hồ Hoàn Kiếm hay hồ Trúc Bạch vẫn còn rất đẹp, thơ mộng đối với du khách. Tuy nhiên đối với một người sống với Hà Nội như chị Lủng, những bờ hồ này đã bị lấn chiếm quá nặng. Và chuyện lấn chiếm bờ hồ nếu nhìn bên ngoài chỉ thấy diện tích hồ bị người ta khai thác không hợp lý. Nhưng nhìn về lâu về dài, mọi nguồn nước thải, rác và những chất hóa học để rửa chén bát đều thải xuống hồ.
Với đà này, chừng vài năm nữa, những bờ hồ thơ mông ở Hà Nội sẽ thành một lối nhỏ nằm vắt qua nơi ao tù, hôi thối.

Đó là những hồ lớn, còn những hồi nhỏ nằm trong thành phố Hà Nội và vùng ven Hà Nội, hầu như không có bờ hồ nào là không bị xâm lấn, xây dựng trái phép. Và hầu hết các công trình xây dựng trên bờ hồ đều nhằm mục đích kinh doanh ăn nhậu, tụ điểm hàng quán.

Chị Lủng đưa ra kết luận là với đà này, vài năm nữa thôi, những ca khúc, tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp Hà Nội cũng như mang dáng dấp, hồn vía Hà Nội ngàn năm sẽ trở nên lạc lỏng, vô nghĩa trong con mắt giới trẻ Hà Nội. Bởi giữa văn chương, âm nhạc và thực tế có khoản cách quá xa.

Hà Nội lại sắp vào mùa thu, những ca khúc về một Hà Nội thơ mộng, huyền nhiệm và lãng mạn lại cất lên đâu đó trong từng góc phố. Nhưng có một Hà Nội khác đang hiện hình, đang phủ bóng lên mùa thu lãng mạn và thơ mộng của Hà Nội.

May 23, 2015

GIÁ TRỊ ĐỒNG TIỀN Ở MỸ



Ở cái xứ tư bản mà tiền là tất cả, người ta có câu “cho tôi biết anh làm bao nhiêu tiền, tôi sẽ nói anh là người như thế nào”. Anh làm lương cao, tiền nhiều, đương nhiên anh là người hơn tôi. Hơn về đủ mọi mặt. Hơn về nhân cách, về phẩm giá, về tài năng, về trí tuệ, về … đủ thứ.

Có thật vậy không?
Tin báo chí cho biết cách đây ít ngày, anh Ndamukong Suh ký một hợp đồng chơi bóng bầu dục (Mỹ gọi là football) với đội Dolphins của Miami, khơi khơi có 114 triệu đô cho 6 năm, tức là khoảng 19 triệu đô một năm, với mức lương bảo đảm bất kể chuyện gì xẩy ra, cho dù chơi dở bị sa thải, hay bị thương không chơi được nữa cũng vẫn bỏ túi, là 60 triệu.

Anh Suh là một cầu thủ trong đội phòng vệ. Nghề của anh là húc, tìm cách đâm xầm vào anh “quarterback” đối nghịch, là anh cầu thủ có trách nhiệm cầm trái banh bầu dục ném cho một cầu thủ bạn, để không cho anh quarterback cơ hội ném banh chính xác. Chỉ húc, không khi nào đụng vô trái banh. Một năm anh chơi 16 trận, mỗi trận kéo dài một tiếng, chia làm bốn hiệp, mỗi hiệp 15 phút. Trung bình, cứ cho là hai đội đấu với nhau, công và thủ ngang nhau, thì mỗi đội sẽ thủ 30 phút và công 30 phút. Tức là mỗi trận, anh chơi nửa tiếng. Đại khái như vậy.

Mới nghe có vẻ lương anh này thật là khủng khiếp. Thật ra, so với trị giá của một đội thể thao chuyên nghiệp Mỹ thì chẳng là bao. Đội bóng rổ tầm thường, không có gì xuất sắc, Los Angeles Clippers mới được bán với giá một tỷ đô. Cái lương của anh Suh sẽ không khiến cho đội Dolphins phải khai phá sản đâu. Nhưng so với lương bình thường của thiên hạ thì như thế nào?

Ta thử làm một bài toán nhỏ. Anh Suh lãnh 114 triệu đô trong 6 năm, tức là 19 triệu một năm. Nếu không bị thương hay không bị ông bầu cho ngồi chơi xơi nước, thì anh sẽ chơi 16 trận cho nguyên mùa, coi như mỗi trận anh lãnh 1,2 triệu. Anh chơi 30 phút mỗi trận, vị chi một giờ “làm việc” chỉ lo húc của anh là 2,4 triệu đô.

Quý độc giả là một lao động làm lương tối thiểu, xấp xỉ 7 đô một giờ. So với anh Suh, một giờ của anh ta bằng 343.000 giờ của một anh lao động lãnh lương tối thiểu. Nói cách khác, qúy độc giả là dân lao động, sẽ phải làm việc 178 năm liên tục, không nghỉ gì hết thì mới có được số tiền anh Suh kiếm được trong một tiếng đồng hồ húc.

Câu hỏi là việc anh Suh làm có đáng bằng 340.000 lần việc làm của một anh lao động như vậy không?

Mà đây chỉ mới là tiền lương chính thức thôi, chưa kể tiền đi làm quảng cáo cho sản phẩm này hay hãng nọ. Bạc chục triệu thêm nữa là chuyện bình thường. Chứ không phải như bác Nguyễn Ngọc Ngạn đi quảng cáo điện thoại chưa đủ tiền uống cà phê Phước Lộc Thọ.

Anh Suh không phải là người duy nhất lãnh lương khổng lồ kiểu này. Trong làng thể thao Mỹ, cả ngàn người lãnh lương bạc triệu để chơi thể thao chuyên nghiệp (pro) và đi quảng cáo. Từ anh Tiger Woods chơi gôn lãnh xấp xỉ 60 triệu một năm trong cả chục năm, cho đến anh Michael Jordan, được dự đoán sẽ là thể tháo gia đầu tiên trong lịch sử nhân loại sẽ có mức thu nhập tổng cộng hơn một tỷ đô kể từ ngày bắt đầu chơi bóng rổ chuyên nghiệp đến nay.

Một tỷ đô chỉ nhờ chơi bóng rổ rồi đi quảng cáo giầy và áo thung?

Đó là nói chuyện về làng thể thao. Còn những lãnh vực tiêu khiển như nhạc sĩ và tài tử điện ảnh, cũng có nhiều người lãnh lương nghe toát mồ hôi.

Vợ chồng Brad Pitt và Angelina Jolie đều là tài tử thượng thặng. Anh chồng lãnh cát-xê trên dưới 20 triệu đô một phim, trong khi chị vợ lãnh khoảng 15 triệu mỗi phim. Mỗi năm mỗi người đóng chừng một phim, thời gian đóng phim kéo dài khoảng 3-4 tháng. Vị chi, hai vợ chồng kiếm khoảng 35 triệu một năm, làm việc tổng cộng chừng nửa năm. Còn nửa năm đi du lịch với một đám con, vừa con ruột vừa con nuôi, trong đó có một cậu bé Việt mồ côi. Dĩ nhiên vẫn chưa kể tiền quảng cáo này nọ.

Bà Oprah Winfrey có một chương trình nói lảm nhảm chuyện trên trời dưới biển, phần lớn là chuyện mấy bà. Không có gì đổi đời. Xuất thân là người đọc tin tức trên một đài truyền hình địa phương, bà có cái “tật” hay cương ẩu thêm chuyện ngoài lề, khiến ông giám đốc phụ trách phần tin tức bực mình, yêu cầu đổi bà đi chỗ khác. Bà qua chương trình “talk show”, nói lảm nhảm một mình. Đó mới là biến cố đổi đời. Ngày nay, trung bình bà đã kiếm khoảng 80 triệu một năm từ khoảng 25 năm nay, và bà có lẽ là người phụ nữ giàu nhất, cũng là người da đen giàu nhất thế giới.

Hãy thử so sánh với một việc làm khác.

TT Obama, người có trách nhiệm lớn nhất thế giới, lo cho cả hơn 300 triệu dân Mỹ, nhưng trên thực tế có tác động đến cuộc sống của cả 7 tỷ người trên thế giới. Ông lãnh 400.000 đô một năm. Ông phải làm việc trắng tóc trong 6 năm mới bằng một tiếng đồng hồ húc và cản của anh Suh. Tức là từ ngày TT Obama tuyên thệ nhậm chức đầu năm 2009 đến nay, làm không biết bao nhiêu việc nổi đình nổi đám cho cả nhân loại, nghe sỉ vả mệt nghỉ, ông mới lãnh được số tiền mà anh Suh sẽ được trả trong một tiếng đồng hồ húc và cản. Chưa kể chuyện anh Suh “làm việc” một năm có chưa tới 6 tháng trong mùa football, trong khi TT Obama làm việc quanh năm ngày tháng, sáng, trưa, chiều, tối. Có khi 3 giờ sáng cũng phải nghe điện thoại réo.

So với bà Oprah, một năm thu nhập của bà này bằng 200 năm làm việc của TT Obama.

Nếu nhìn vào số tiền làm ra để nhận định giá trị con người Mỹ, thì dường như cái mà dân Mỹ luôn đấm ngực khoe là “giá trị Mỹ” –American values- đã bị đảo lộn, chân lên đầu từ lâu lắm rồi, ít ra cũng từ nửa thế kỷ nay rồi. Sáu năm làm việc cật lực gần như thường trực 24/7 của một tổng thống chỉ bằng một tiếng đồng hồ húc và cản của một cầu thủ football mà trình độ văn hoá chỉ nằm ở mức trung học là may. Hậu quả việc làm của anh cầu thủ này cũng chẳng có gì khủng khiếp lắm, chẳng chết ai, chỉ là chuyện anh quarterback có liệng được trái banh hay không thôi.

Nhìn dưới khiá cạnh này, nếu biết trước như vậy, kẻ viết này trước đây đã bắt thằng con đi học húc và cản thay vì đi học chữ. Vừa vui và đỡ nhức đầu cho nó lại vừa kiếm bộn bạc sau này.

Nói chơi thôi, chứ thật ra, phần lớn mấy anh cầu thủ như Suh, có lẽ húc và cản nhiều quá nên không thọ được bao lâu, chơi bóng chừng một chục năm đến khi bước vào tuổi 30 là hết thời. Sau khi hết thời thì phần lớn cũng hết tiền vì kiếm tiền quá dễ nên xài vung vít cũng quá mức, nhất là trình độ hiểu biết tài chánh khiêm tốn không biết cất tiền như thế nào. Như anh cầu thủ bóng rổ Harrison, trước đây lãnh mấy triệu mỗi năm, chơi bóng rổ được khoảng 5 năm, bị cho giải nghệ vì chơi dở, có lẽ do ăn chơi nhiều hơn lo tập dợt. Sau khi nghỉ chơi một năm, xài hết tiền, bây giờ đi... nướng hăm-bơ-ghơ cho tiệm McDonald, lãnh lương tối thiểu.

Cái điều lạ lùng là hình như chẳng ai thắc mắc hay bàn luận về mức lương của mấy anh Suh hay anh Tiger hay bà Oprah này cả. Coi như chuyện bình thường, không có gì đáng nói. Hay là vì “phải đạo chính trị” không được đụng đến các triệu phú da màu?

Trong khi đó, điều đáng nói là giới truyền thông dòng chính và các chính khách cấp tiến không bỏ lỡ cơ hội sỉ vả mức lương của các đại doanh gia. Họ bị buộc tội khai thác dân lao động, làm lương quá cao so với nhân viên của họ. Đã vậy lại còn lãnh thưởng cuối năm quá lớn. Quá nhiều tiền, họ xài không hết cho dù mua dinh thự nguy nga hay mua máy bay phản lực riêng, nên phải đầu tư để rồi tiền lại đẻ ra tiền. Chỉ trích đám này dễ hơn vì tuyệt đại đa số là dân da trắng. Chửi dân da đen thì là kỳ thị, chửi dân da trắng không sao.

Thật ra, sỉ vả đám này cũng không oan lắm. Nhìn vào mấy đại doanh gia Mỹ, nhất là mấy ông chủ ngân hàng, sau khi lãnh lương và “tiền thưởng” bạc chục triệu vì có công phá tan thị trường địa ốc và tài chánh Mỹ, khiến chính phủ Mỹ phải bơm cả trăm tỷ để cứu các ngân hàng, họ vẫn ung dung ngồi trên ngai cũ, vẫn lãnh bạc triệu, hay về hưu mang theo cả trăm triệu, chẳng bị trừng phạt gì về những sai lầm, hay đúng hơn, những hành động ăn cướp trắng trợn của họ. Ông Chủ Tịch Countrywide Financial, là ông vô địch đã cấp không biết bao nhiêu nợ mua nhà dưới tiêu chuẩn, đã lãnh 500 triệu đô vừa lương vừa tiền thưởng trong vòng vài năm trước khi công ty khai phá sản phải bán cho Bank of America. Ông Chủ Tịch Merrill Lynch cũng làm cho công ty gần phá sản, phải bán tháo cho Bank of America, bị ép phải từ chức, đã ra đi với gói quà 150 triệu đô tiền mặt. Cái đám người này dĩ nhiên đáng bị chu di, nếu không thì cũng đáng bị đè cổ ra đánh thuế 99,99% trên thu nhập của họ.

Nhưng vấn đề không giản dị như vậy. Mấy ông chủ ngân hàng này chỉ là một nhúm chừng một trăm ông là nhiều. Không phải chủ công ty hãng xưởng Mỹ, ai cũng được như vậy. Do đó, khối cấp tiến nhắm đánh vào tất cả các ông chủ hãng xưởng là đánh sai đối tượng, chỉ có hại mà không có lợi gì.

Một kinh tế gia người Pháp tên là Thomas Piketty đang gây sóng gió lớn trong giới cấp tiến. Ông phân tích bất quân bình thu nhập –income inequality- ngày càng lớn trong thế giới tư bản. Người nghèo vẫn nghèo, người giàu mỗi ngày mỗi giàu hơn. Kết luận của ông đại khái là cách biệt thu nhập ngày càng tăng chỉ vì chính sách thuế khoá bất công bằng, đánh thuế vào lương (tức là đánh thuế vào sức lao động) quá cao so với đánh thuế vào đầu tư. Nôm na ra, ý của Piketty là phải đánh thuế nặng hơn vào tiền vốn đầu tư, tức là tăng thuế “nhà giàu” không hơn không kém.

Đánh thuế nhà giàu là chủ đề ưu tiên của TT Obama và khối cấp tiến, nên lý thuyết Piketty đang được giới cấp tiến quảng bá rầm rộ với sự phụ họa của truyền thông dòng chính.

Điều ông Piketty không nói rõ là cái tiền đầu tư mà ông và TT Obama muốn đánh thuế nặng hơn cũng là cái tiền nó đẻ ra công ăn việc làm cho thiên hạ.

Chuyện TT Obama từ sáu năm nay không ngừng đòi hỏi và đe dọa tăng thuế nhà giàu đã là một trong những lý do khiến các đại gia và đại công ty tích trữ tiền mặt mà không chịu đầu tư, mở mang hãng xưởng vì sợ bị đánh thuế nặng hơn.

Công ty APPLE, một trong những công ty lớn nhất thế giới, cũng là một trong những mạnh thường quân ủng hộ tiền mạnh nhất cho TT Obama và đảng Dân Chủ, hiện nay có cả 180 tỷ đô tiền mặt nằm trong ngân hàng (nhiều tiền tươi hơn cả Nhà Nước Obama!), thay vì dùng để mở mang hãng xưởng, thuê thêm nhân công.

Thuần túy dựa trên lý luận kinh tế học, đánh thuế nặng trên tiền đầu tư là một sai lầm, vì nó sẽ làm thui chột đầu tư. Mấy đại gia sợ bị thuế nặng sẽ không đầu tư thêm, mà không đầu tư thêm thì chỉ có nghiã là không thêm hãng xưỡng, không thêm nhân công, không thêm việc làm.

Nói cách khác, ý kiến của ông Piketty có thể là giải pháp giảm bất quân bình thu nhập thật, nhưng sẽ tác hại lớn cho sự phát triển kinh tế. Cũng vẫn là nan đề cổ lỗ sĩ, làm chiếc bánh lớn ra hay cứ để chiếc bánh như vậy rồi lo chia lại cho đồng đều hơn.

Một ý kiến có thể hợp lý hơn là ý kiến của Bill Gates, người giàu nhất thế giới, nhưng cũng là người chịu chi cho các công tác phước thiện nhất thế giới. Ông này đề xướng ý kiến đánh thuế trên sự tiêu dùng thay vì trên thu nhập hay đầu tư.

Đánh thuế trên tiêu dùng có nghiã là dân nghèo xài ít thì sẽ bị đánh thuế ít, dân giàu xài sang sẽ phải đóng thuế nhiều hơn. Anh nghèo uống trà đá sẽ đóng thuế rất ít, anh trung lưu uống bia, rượu vang, sẽ đóng thuế nhiều hơn. Anh đại gia uống xâm banh hay cognac sẽ đóng thuế nhiều hơn nữa.

Dựa trên nguyên tắc này, những anh thể tháo gia hay ca sĩ lãnh bạc chục triệu một năm, chẳng đầu tư gì nhiều, chỉ vung tiền mua nhà cao cửa rộng, rượu sang, quần áo đắt tiền, cà rá cho đào nhí đào già, du thuyền, máy bay riêng, … sẽ là đối tượng thu thuế tối đa. Mà đây cũng là thuế tự nguyện thôi. Không ai bắt anh xài sang, do đó anh không thể trách bất cứ ai là đã bắt anh đóng thuế nặng. Đó là anh tự nguyện ăn xài và đóng thuế thôi.

Nhìn vào tình trạng chung hiện nay, ta có thể nói cấu trúc lương bổng hay thu nhập đã thay đổi rất nhiều trong mấy thập niên qua. Cách đây 50 năm, những đại ca sĩ, đại tài tử, đại thể tháo gia, hay ngay cả các đại doanh gia, tương đối làm ăn khấm khá hơn người bình thường thật, nhưng cũng chưa đến độ vô lý như hiện nay. Không có chuyện sáu năm lương của tổng thống Eisenhower bằng một giờ lương của một cầu thủ football thời đó.

Thế nhưng cấu trúc thuế vẫn không thay đổi. Đưa đến tình trạng tính theo tỷ lệ thì TT Obama đóng thuế ngang với anh Suh, nhưng nếu nhìn vào số tiền còn lại sau khi đóng thuế, thì TT Obama còn lại không bao nhiêu, hơn hai trăm ngàn, trong khi anh Suh lãnh 19 triệu, cho là anh đóng thuế một phần ba, khoảng 7 triệu, anh vẫn còn 12 triệu xài vung vít chơi. Một triệu một tháng xài chơi, chẳng đầu tư, chẳng đóng góp gì cho xã hội.

Có cái gì thật sự không ổn trong bức tranh này.

Nếu nói về tình trạng bất quân bình thu nhập, thì phải thẳng thắn nhìn nhận một lý do quan trọng chính là những trợ cấp an sinh xã hội.

Ai cũng hiểu và chấp nhận đối với một khối lớn dân chúng, trợ cấp an sinh là điều không có không được. Nhiều người có thể làm đầu tắp mặt tối mà vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu sinh tồn tối thiểu. Hay họ cũng có thể tích cực đi kiếm việc làm mà không ra. Họ cũng có thể bị ốm đau khoá tay chân không đi làm được. Dĩ nhiên, họ đều là những người thực sự có nhu cầu, cần trợ cấp an sinh.
Nhưng đồng thời cũng có không ít những người không có nhu cầu, hay có thể tự lực cánh sinh được nhưng lại vẫn muốn ỷ lại vào trợ cấp. Rồi chính quyền cấp tiến cũng muốn vung tiền ra cho họ. Một hình thức mua phiếu cử tri lộ liễu mà không ai dám nhìn nhận.

Cái lợi của trợ cấp là giúp đỡ cụ thể trong ngắn hạn, nhưng cái hại lâu dài là trói chặt người nhận trong giới hạn trợ cấp, biến họ thành nô lệ trợ cấp. Trợ cấp là cái tối thiểu để giúp vượt qua khó khăn nhất thời. Nếu cứ trông nhờ vào trợ cấp thì mãi mãi thu nhập cũng sẽ vẫn chỉ ở mức đáp ứng nhu cầu tối thiểu. Cái khối này sẽ không thể nào thấy thu nhập của mình tăng, luôn luôn đì đẹt ở mức tối thiểu. Với khối người này ngày một lớn thì dĩ nhiên cách biệt thu nhập tính trên cả nước cũng ngày một lớn theo.

Nhà Nước Obama gần đây hãnh diện khoe thành tích vẻ vang là số người được trợ cấp Medicaid lên tới mức cao nhất lịch sử cận đại, để rồi chỉ trích khối bảo thủ Cộng Hoà là vô tâm, vô nhân, không muốn phát triển trợ cấp Medicaid. Rõ ràng là có cái gì sai trật. Trách nhiệm của Nhà Nước là làm cho dân giàu nước mạnh, chứ đâu phải là để kéo càng nhiều người vào khối cùng đinh lệ thuộc trợ cấp càng tốt.

Có nghiã là Nhà Nước phải lấy làm tiếc hay hổ thẹn khi khối người hưởng Medicaid quá cao, chứ sao lại coi đó là một thành công đáng hãnh diện, vỗ ngực khoe công?

Nước Mỹ có nhiều chuyện oái ăm, kẻ viết này định cư tại đây gần bốn thập niên, nhiều khi vẫn tối dạ chưa hiểu nổi. Một Nhà Nước thành công là một Nhà Nước với ít người nhận Medicaid nhất? Hay với nhiều người nhận Medicaid nhất?

Trong nấc thang xã hội, một anh cầu thủ football đáng giá bằng bao nhiêu ông tổng thống?

May 16, 2015

THẢM HOẠ TỪ NỀN GIÁO DỤC CHẾT NGƯỜI

Trời Sài Gòn những ngày vào hè nóng bức và khói bụi đến khó thở, ngay cả khi vào sáng tinh mơ. Tôi mắt nhắm mắt mở chạy vội đến công ty lúc 6 giờ sáng vì lo kẹt xe sẽ không kịp dự cuộc họp quan trọng lúc 7 giờ. Đi làm nhiều năm, nhưng cảnh từng đoàn xe đâm ngược đâm xuôi, leo lên cả lề mà vẫn không đủ đất khiến tôi nhiều khi phát cáu với… ông trời. Những ngày công tác ở châu Âu về, nhiều người Sài Gòn càng dễ làm tôi bực mình vì những thứ lễ nghi vốn đã được dạy từ mẫu giáo – không vượt đèn đỏ, qua đường nhường nhịn nhau, không lái xe ẩu tả, hay đơn giản nhất là đừng hở chút là bóp còi inh ỏi khiến người đi gần đau óc mệt tai – nhưng chẳng ai nghe, dù “giải phóng 40 năm rồi chứ đâu phải ít”. Bạn bè tôi hay kể chuyện vui, khi sang châu Âu mà thấy ai bóp còi inh ỏi dù đường vắng teo, thì hãy quay lại chào người đó bằng… tiếng Việt (vì 99% họ là người Việt). Một đứa khác cắt lời “Tao đi Lào, Campuchia cũng thấy người ta bóp còi inh ỏi, dù dân họ nổi tiếng hiền lành và đường phố cũng không đông như Việt Nam. Ai dè, thằng lái xe là…du học sinh từ Việt Nam về. Bó tay”. Cả bọn cười thấm thía, xót xa, và rồi mau chóng chuyển sang đề tài khác vì càng nói lại càng đau.

Con đường tôi đến công ty ngang qua nhiều trường học, và rồi khi đầu óc mơ màng vì những giấc ngủ chưa tròn vì lo chuyện áo cơm, bất giác tôi thấy một cậu bé tầm lớp 8 hay 9 gì đó, vai khăn quàng đỏ, ôm người đàn ông (chắc là cha) ngủ ngon lành. Sáu giờ sÁng tại Sài Gòn, với sự ồn ào đủ để người ta phải hét lên vì mất ngủ nếu gần các khu dân cư, đường lớn. Nhưng cu cậu vẫn ngủ vắt vẻo trên lưng người cầm lái. Kỷ niệm xưa, vào hơn chục năm trước, cứ như ngày hôm qua ùa về một cách vô thức.


Ở cái tuổi của cậu bé, chúng tôi còn “nướng” đến 6 giờ 45, rồi chỉ kịp gặm bánh mì và vào lớp. Ngày chỉ học một buổi, buổi còn lại đá bóng, thả diều, bắt cá, đi bơi, làm đồ chơi, bắn culi, bắt dế… Ôi thôi nhiều vô số kể. Ở cái tuổi của cậu, chúng tôi được thầy cô dạy hết những gì cần học trên lớp, để rồi về nhà tự học thêm một ít, làm một ít bài tập rồi… chơi là chính. Chúng tôi biết phụ ba mẹ làm rẫy, nấu cơm, dọn nhà và xem đó là một niềm vui. Những đêm sáng trăng cả bọn trong xóm tranh thủ làm bài tập sớm rồi rủ nhau đốt lửa nướng bắp, nướng khoai, rồi ngồi kể chuyện ma cười rôm rả cả xóm cả làng, để rồi ba mẹ xách đèn pin đi tìm và tiện tay phết vào mông vài roi vì tội đi chơi khuya không chịu về nhà.

Để rồi tuổi thơ qua đi theo những trang sách với những nét chữ mà thầy cô, ba mẹ uốn nắn từng chút một. Để rồi chúng tôi biết thương yêu bạn bè, hàng xóm, và tất nhiên là cả gia đình. Chúng tôi biết tự mình làm đồ chơi và trân trọng chúng; biết đọc những câu thơ dân gian mà khối đứa Sài Gòn phải trầm trồ; biết nấu cơm, dọn nhà nơi Sài Thành hoa lệ, rực rỡ nhưng cuộc sống khắc nghiệt với những đứa sinh viên nghèo. Có đứa đạp xe hơn chục cây số để dạy thêm, bồi bàn, hát phòng trà, hay bán sách… để nung nấu biết bao ước mơ phía trước.
Ấy vậy mà trẻ Sài Gòn sao khác lạ. Có đứa học lớp sáu vẫn còn chờ mẹ lấy cho cây tăm xỉa răng, chờ cha đón đưa đưa đón mà vẫn cứ lười trốn học. Chúng hào hứng với những món đồ chơi đắt tiền, để rồi quăng đi không thương tiếc dù ba mẹ mất cả ngày công. Nhưng tôi hiểu, cũng như cậu bé vừa đi vừa ngủ kia, những đứa trẻ Sài Gòn và những chốn thị thành sớm trở thành nạn nhân của một nền giáo dục quá nặng chữ nghĩa, máy móc và mất ổn định.

Trẻ con ngày nay phải học từ sáng đến tận khuya, và học tất cả các ngày trong tuần. Nào là thầy Toán, thầy Lý, cô Sinh, cô Văn hay cả những môn mà bọn tôi gọi là năng khiếu, sở thích cũng bị ép học thêm. Không học sao được khi hệ thống giáo dục vốn đã quá nhiều câu chữ ngôn từ, lấy điểm số làm thang đo con người và rồi khối lượng của chiếc cặp vẫn tiếp tục gia tăng, đè nặng lên đôi vai của trẻ nhỏ. Chúng không có thời gian được ba mẹ dẫn đi xem phim, đi thả diều ngoài công viên, đi câu cá, hay thậm chí là những trò mà bất kỳ đứa trẻ nào cũng cần biết. Chúng không có thời gian và cũng chẳng được thực hành việc “giúp cha lau nhà, giúp mẹ rửa chén, giúp em học hành” như những bài học mà chúng được thầy cô vội vàng truyền đạt nửa úp nửa mở trên lớp để còn kịp về nhà… dạy thêm. Và đến “cái quyền” cơ bản nhất là được “ăn ngủ” – thư giãn, giải trí…- chúng cũng bị cái xã hội “giàu thành tích” này cướp mất.

Tôi hỏi đứa học trò vừa vào lớp 8 của mình: “Em học để làm gì?” Ngày xưa khi cô tôi hỏi, tôi bảo “con muốn làm bác sĩ”. Ừ thì tôi không làm bác sĩ, nhưng ít nhất khi ấy, tôi ý thức chuyện tôi thích gì và làm gì. Còn đứa học trò của tôi ngọng nghịu nửa tiếng Việt, nửa tiếng Anh bảo: “Em cũng không biết”. “Thế sao em học? Học xong em làm gì?” – Tôi ngạc nhiên. “Học xong lớp chín ba mẹ cho em đi châu Âu và mua cho em một cái Ipad mới” – cu cậu phấn khởi. Cu cậu ngày chỉ ngủ 4 tiếng, chủ yếu là học, còn lại lén ba mẹ chơi Games. Đến nỗi một tờ giấy nháp gấp chiếc máy bay mà cu cậu loay hoay hoài vẫn không ra hình ra dáng, nói chi là đến ước mơ. Giáo dục Việt không dạy cho trẻ ước mơ, thậm chí còn chê cười vào những ước mơ ngây ngô có phần cảm tính của trẻ. Giáo dục nhà mình bơm vào trẻ một nỗi sợ “rớt hạng”, rớt danh sách học sinh giỏi, ở lại lớp… Như khi tôi khuyên học trò mình nên bớt học thêm, em lắc đầu nguầy nguậy: “không học thêm, thầy ra đề không làm bài được”. Rồi cu cậu cho tôi xem thành tích thuộc lòng hàng loạt bài toán, câu thơ đi học thêm mà đa phần chúng được thầy cô bộ môn “copy” y nguyên vào bộ đề kiểm tra trên lớp. Người mẹ của cậu nhóc cũng bức xúc biết là con cái mệt, nhưng nó không học thêm thì ba mẹ nó mệt hơn vì thầy cô cứ réo nó thi rớt, ba mẹ cũng chẳng an tâm mà làm ăn được. Thôi cứ cho đến nhà tuần vài buổi, khỏi phải lo. Mấy ông nhà nước cứ cấm dạy thêm, nhưng dạy thì vẫn dạy, không bằng cách này thì cách khác, không nơi này thì nơi khác, chả thấy ai sợ gì.

Mấy đời bộ trưởng giáo dục hô hào cải cách, ngay như sách giáo khoa, cũng chẳng ra gì ngoài chuyện moi ví người dân. Bộ sách lũ trẻ học đến giờ vẫn đầy tính máy móc, lý thuyết, thiếu tính ứng dụng đến…bất ngờ. Các chuyên gia nước ngoài hễ cứ nhắc đến các em Olympic thì nhớ đến Việt Nam, nhưng rồi lắc đầu tặc lưỡi vì các em có tài năng cũng dần mai một và chết yểu trong một nền giáo dục không thể phát huy một cách triệt để năng lực. Nhiều phụ huynh kháo tai nhau “cho con tỵ nạn giáo dục”, cứ bay qua trời Âu, trời Mỹ mà học cho thành tài. Chả là vì thế mà không ít lần, báo chí Việt “nhận bà con” với giáo sư này, tiến sỹ nọ tài giỏi tầm quốc tế có…gốc Việt Nam.

Cầm tờ báo trên tay, nụ cười các em thi Olympic, hay Olympia và các cuộc thi tài năng tươi roi rói. Rồi đến khi vài ba năm sau, họ chẳng còn ở Việt Nam. Họ yêu cái dãy đất hình chữ S, yêu cả lũy tre, ao làng hay cây đa đầu ngõ. Nhưng họ nhận ra rằng họ chỉ có thể làm được điều họ mơ ước khi ở trời tây. Bao cánh chim đầu đàn cứ bay đi rồi chẳng thiết quay về, khi nền giáo dục vẫn như rào cản cho nguồn năng lượng và những ý tưởng phơi phới của họ. Để rồi chất xám chảy về chỗ trũng, nơi tài năng và công sức của họ được đáp đền một cách xứng đáng chứ không chỉ là những con điểm tròn trĩnh không hồn, hay những chiêu trò ganh tỵ, mưu mô của những kẻ vốn bị thành tích làm lu mờ lý trí.

Như câu chuyện của cậu bé ngủ gật trên xe kia, cuộc đời em không chừng rồi cũng sẽ vật vờ như chính em bây giờ vậy. Mở mắt ra, em sẽ thấy bài kiểm tra mà em đã thức cả đêm để cố học thuộc lòng. Sẽ phải chạy cho kịp “ca học” sáng trưa chiều tối. Sẽ phải làm nhiều thứ để thầy cô, ba mẹ hài lòng hơn là cho chính em cảm thấy được niềm vui. Người ta bảo, đó là “chết” vì một nền giáo dục quá lạc hậu; còn tôi lại cho rằng em đang bị nền giáo dục này đẩy vào tình thế sống cuộc đời của những người mà bản thân em chẳng ý thức được em sẽ là ai. “Sống” vậy hay “chết” vậy cũng một nghĩa mà thôi.

DANH SÁCH BÀI DĂNG TỪ MỚI ĐẾN CŨ

NHẠC SĨ THANH SƠN: ÔNG HOÀNG CỦA NHỮNG TÌNH KHÚC MÙA HÈ
NGHE LẠI CA KHÚC TUYỆT ĐẸP “ANAK – CON YÊU” _VÌ YÊU CON CHA MẸ SẼ CHẲNG TIẾC CẢ CUỘC ĐỜI
CASABLANCA - TÌNH YÊU LỚN MÃI THEO THỜI GIAN
TÌNH MÃI NGU NGƠ _(ときめきはバラード - Takeshi Matsubara) _LỜI VIỆT PHẠM DUY
BAO DUNG HƠN ĐỂ NHẸ LÒNG HƠN NHƯ NHẠC PHẨM “XIN CÒN GỌI TÊN NHAU”
"DELILAH_TÌNH HẬN" MỘT BẢN BALLAD GIẾT NGƯỜI
RU EM TỪNG NGÓN XUÂN NỒNG MỘT NHẠC PHẨM DỄ NGHE, DỄ THẤM, DỄ ĐI VÀO LÒNG NGƯỜI NHƯNG LỜI KHÔNG DỄ LÝ GIẢI
CA KHÚC "KHOẢNH KHẮC TÌM VỀ"
VÌ TÔI LÀ LINH MỤC
MẸ TA TRẢ NHỚ VỀ KHÔNG (THƠ ĐỖ TRUNG QUÂN, NHẠC BETA THANH THIÊN TRẦN, TIẾNG HÁT THUỴ LONG)
TUẤN KHANH, CHIẾC VĨ CẦM KHÔNG CÓ TUỔI (NHẠT NHOÀ_TRẦN THÁI HOÀ)
DUYÊN THỀ VÀ DÒNG NHẠC CỦA NHẠC SĨ THANH TRANG
XUÂN NÀY CON KHÔNG VỀ
NHA TRANG NGÀY VỀ
CĂN NHÀ AN ĐÔNG CỦA MẸ TÔI _ Truyện ngắn của nhà Văn Nguyễn Tường Thiết
“MƯA TRÊN BIỂN VẮNG”_BÀI HÁT GẮN BÓ ĐỊNH MỆNH VỚI GIỌNG HÁT CA SĨ NGỌC LAN
ƯỚT MI, CƠN MƯA NHỎ TRÊN TÂM HỒN MONG MANH
GIỚI THIẾU ĐẾN MN MỘT ALBUM NỔI TIẾNG TRƯỚC 1975 ĐƯỢC SẢN XUẤT BỞI NS DUY KHÁNH _"BĂNG NHẠC TRƯỜNG SƠN 3 VỚI CHỦ ĐỀ QUÊ HƯƠNG VÀ NGƯỜI TÌNH"
NHẠC PHẨM “LÒNG NGƯỜI LY HƯƠNG” (“LA COMPLAINTE DES INFIDÈLES” – LỜI VIỆT: HƯƠNG HUYỀN TRINH)
NHẠC SĨ VŨ THÀNH AN VÀ NHỮNG BÀI KHÔNG TÊN _BÀI KHÔNG TÊN SỐ 2
“BAO GIỜ BIẾT TƯƠNG TƯ” (PHẠM DUY & NGỌC CHÁNH) – TÂM HỒN YÊU THƯƠNG LÃNG MẠN ĐA CHIỀU CỦA MỘT CHÀNG TRAI MỚI LỚN
THƯƠNG NHỚ BÓNG XUÂN XƯA _"CÔ LÁI ĐÒ" (THƠ NGUYỄN BÍNH-NHẠC NGUYỄN ĐÌNH PHÚC)
NS HOÀNG NGUYÊN VÀ MỐI TÌNH ÂM NHẠC VỚI THÀNH PHỐ MÙ SƯƠNG _BÀI THƠ HOA ĐÀO (PRE 75)
CÓ MỘT PHẠM DUY CỦA XUÂN CA _KHÚC HÁT THANH XUÂN (LỜI VIỆT PHẠM DUY)
MÙA XUÂN TRONG NHẠC CỦA NGUYỄN VĂN ĐÔNG _LK PHIÊN GÁC ĐÊM XUÂN & NHỚ MỘT CHIỀU XUÂN
ĐÓN XUÂN NÀY NHỚ XUÂN XƯA _40 NHẠC PHẨM XUÂN XƯA THU ÂM TRƯỚC 1975
TRẢ LẠI THOÁNG MÂY BAY (TÁC GIẢ HOÀNG THANH TÂM) _MỐI TÌNH ĐẦU QUA 2 THẾ KỶ
“CHÀNG LÀ AI?” BÀI TÂN NHẠC ĐẦU TIÊN ĐƯỢC GHÉP CHUNG VÀO BẢN VỌNG CỔ, MỞ ĐẦU CHO THỂ LOẠI TÂN CỔ GIAO DUYÊN
"NẾU MỘT MAI EM SẼ QUA ĐỜI" _TƯỞNG NHỚ CS. LỆ THU (16-07-1943 - 15-01-2021)
"GIỌT MƯA TRÊN LÁ" XỨNG ĐÁNG LÀ CA KHÚC TIÊU BIỂU CHO TÌNH YÊU VÀ HY VỌNG
“KHÚC HÁT THANH XUÂN” BÀI HÁT NGỌT NGÀO CHO MỘT THỜI THANH XUÂN HỒN NHIÊN ĐẦY MỘNG ƯỚC
HƯƠNG GIANG DẠ KHÚC (NGUYỄN HOÀNG ĐÔ) HỒNG NHIÊN
“NÓ” THỜI NÀO CŨNG CÓ – NHỮNG MẢNH ĐỜI BẤT HẠNH TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI NGÀY NAY (ANH BẰNG – HOÀNG MINH)
NHÀ "CHĂN NHẠC" TÔ VŨ TÁC GIẢ BÀI SỬ CA CÓ TÊN"NHẠC XƯA" VIẾT VỀ HAI BÀ TRƯNG
NHẠC SĨ PHẠM DUY NÓI VỀ CÁCH ĐẶT LỜI VIỆT CHO NHẠC NGOẠI _ALBUM "NHẠC NGOẠI TUYỂN CHỌN LỜI VIỆT PHẠM DUY"
NHỮNG ĐIỀU ÍT BIẾT VỀ DANH CA THÁI THANH "MỘT NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ MỘT NGƯỜI MẸ"
CHỈ CÓ THÁI THANH MỚI CÓ BIỆT TÀI “PHIÊU” CŨNG VỚI NHỮNG CA KHÚC CỦA PHẠM DUY_ALBUM "THÁI THANH (PRE75)-TÌNH CA PHẠM DUY 2"
DANH CA THÁI THANH "TIẾNG HÁT LÊN TRỜI" _ALBUM "THÁI THANH (PRE75)-TÌNH CA PHẠM DUY 1"
"LOVE STORY" BẢN TÌNH CA BẤT HỦ
NHẠC PHÁP LỜI VIỆT _NHỮNG TÌNH KHÚC CỦA ELSA _QUELQUE CHOSE DANS MON COEUR (CHÚT VƯƠNG VẤN TRONG TIM)
NHẠC PHẨM "ELLE ÉTAIT SI JOLIE" (EM ĐẸP NHƯ MƠ) ĐÃ MANG NS ALAIN BARRIÈRE ĐẾN ĐỈNH CAO DANH VỌNG
BĂNG NHẠC SƠN CA 3 _MỪNG GIÁNG SINH _TÌNH YÊU & THANH BÌNH”
HOÀN CẢNH RA ĐỜI CA KHÚC “CHIỀU MƯA BIÊN GIỚI”
SẦU CHOPIN "TRISTESSE" (LỜI VIỆT PHẠM DUY)
EM VỀ MÙA THU _NGÔ THUỴ MIÊN
MÙA ĐÓN NẮNG _NẮNG THUỶ TINH
“NGHÌN TRÙNG XA CÁCH “ _LỜI TIỄN BIỆT DỊU ÊM CHO MỘT CÂU CHUYỆN TÌNH 10 NĂM DAI DẲNG CỦA CỐ NS PHẠM DUY
PLAISIR D’AMOUR _TÌNH VUI (MÀ KHÔNG VUI)
“ĐÊM TRAO KỶ NIỆM” CA KHÚC NHẠC VÀNG NỔI TIẾNG NHẤT CỦA CA NHẠC SĨ HÙNG CƯỜNG
DÒNG SÔNG QUÊ CŨ (LA PLAYA )
XUÂN THÌ (PHẠM DUY)
ELLE IMAGINE_MỘT THOÁNG CHIM BAY (LỜI VIỆT KHÚC LAN) tiếng hát NGỌC LAN
ĐÔI NÉT GIỚI THIỆU VỀ CA KHÚC "GÁNH LÚA" MỘT SÁNG TÁC CỦA NS PHẠM DUY
VÀI NÉT VỀ BÀI HÁT XƯA "ĐÀN CHIM NHỎ" CỦA NS PHẠM DUY
MAI HƯƠNG, ĐÓA HƯƠNG CA BUỔI SỚM
BẾN XUÂN _ ĐÀN CHIM VIỆT

CẢM NHẬN "ĐÊM THU” CA KHÚC ĐẦU TAY CỦA NHẠC SĨ ĐẶNG THẾ PHONG

XIN CHỌN NƠI NÀY LÀM QUÊ HƯƠNG DẪU CHO KHÓ THƯƠNG

MỘT CHÚT GIA VỊ THÊM VÀO NHẠC PHẨM “NGÀY XƯA HOÀNG THỊ” BẤT HỦ CỦA PHẠM THIÊN THƯ–PHẠM DUY
VỀ CA KHÚC “MỘT BÀN TAY” CỦA NHẠC SĨ PHẠM DUY
THƯỞNG THỨC DẠ KHÚC SERENADE BẤT HỦ CỦA NHẠC SĨ THIÊN TÀI FRANZ SCHUBERT
ĐOÀN CHUẨN, TÌNH NGHỆ SĨ _ ĐOÀN CHUẨN-TỪ LINH, VẬY TỪ LINH LÀ AI?
LES FEUILLES MORTES - LÁ ÚA MÃI XANH
PHẠM DUY GIỮA CHÚNG TA (Sài Gòn 06/10/2021 ~ NS TUẤN KHANH)
50 NĂM GIAI THOẠI BÀI "IL EST MORT LE SOLEIL" (NẮNG ĐÃ TẮT)
TƯỞNG NHƯ CÒN NGƯỜI YÊU (THƠ LÊ THỊ Ý_NHẠC PHẠM DUY) JULIE
BOTH SIDES NOW HAI KHÍA CẠNH CUỘC ĐỜI (LỜI VIỆT PHẠM DUY)
BÊN KIA SÔNG (THƠ NGUYỄN NGỌC THẠCH NHẠC NGUYỄN ĐỨC QUANG)
MƠ MÒNG_RÊVERIE - SCHUMANN(LỜI VIỆT PHẠM DUY)-TIẾNG HÁT MAI HƯƠNG
THU SẦU – LỜI TÂM SỰ CỦA MỘT CUỘC TÌNH NGANG TRÁI
NHỚ QUÊ HƯƠNG (PHẠM NGỮ) LỆ THU PRE 75
ADIEU TRISTESSE (Tạm biệt nổi buồn)
NGỤ NGÔN CUỘC ĐỜI _CA KHÚC DONNA DONNA LÀ THÁNH CA CỦA SỰ TỰ DO
ĐỒNG XANH_GREEN FIELDS
RU ĐỜI ĐI NHÉ (TRỊNH CÔNG SƠN) TOÀN NGUYỄN
GIỌT MƯA THU, NHẠC PHẨM CUỐI CÙNG CỦA CỐ NHẠC SĨ ĐẶNG THẾ PHONG
TIẾNG RU NGÀN ĐỜI (VU LAN MUỘN)_LÒNG MẸ
LỜI RU CHO ĐÀ NẲNG (NHẠC NHẬT LỜI VIỆT) KHÁNH LY
BÓNG CẢ _HÃY BAO DUNG NẾU CHA MẸ GIÀ ĐI...
CHIẾC LÁ THU PHAI (TRỊNH CÔNG SƠN)TUẤN NGỌC
CƠN GIÓ THOẢNG (QUỐC DŨNG) NGỌC LAN
ANH CÒN NỢ EM _NỢ MỘT CUỘC TÌNH DANG DỞ, NỢ EM CẢ THANH XUÂN TƯƠI ĐẸP CỦA MỘT THỜI CON GÁI…
LỜI TÌNH BUỒN (VŨ THÀNH AN) VŨ KHANH
BAY ĐI CÁNH CHIM BIỂN
VŨ ĐỨC SAO BIỂN NÓI VỀ “THU, HÁT CHO NGƯỜI”
CÁNH BUỒM XA XƯA (LA PALOMA)
YÊU EM BẰNG CẢ TRÁI TIM (LOVE ME WITH ALL YOUR HEART)
CHUYỆN TÌNH YÊU (HISTOIRE DE UN AMOUR)
CŨNG LÀ TRĂM NĂM _NO EXCUSAS SIN RODEOS
KHÔNG CẦN NÓI YÊU ANH (LỜI VIỆT PHẠM DUY) CA SĨ KIỀU NGA
DỐC MƠ (NGÔ THUỴ MIÊN) KHÁNH HÀ
ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY - NÀNG LÀ AI ?
MAI TÔI ĐI (NHẠC ANH BẰNG, THƠ NGUYÊN SA)
CHUYẾN XE CUỘC ĐỜI
CA KHÚC VƯỢT THỜI GIAN – “TRẢ LẠI THOÁNG MÂY BAY”
HẠT MƯA BUỒN (DIỆU HƯƠNG) TRẦN THÁI HOÀ
NỖI TƯƠNG TƯ NGÀY MƯA THÁNG SÁU...
XA NHẤT VÀ GẦN NHẤT
HÃY LÀ CHÍNH BẠN _HÃY CỨ THẾ......
NĂM THÁNG TĨNH LẶNG, KIẾP NÀY BÌNH YÊN
LÒNG THIỀN, HOA CÚC NỞ
ĐỪNG ĐỢI...
ĐƠN GIẢN ĐẾN MỨC TẬN CÙNG CHÍNH LÀ TRÍ TUỆ (A SIMPLE LIFE IS FULLY HAPPINESS)
HẠNH PHÚC LÀ GÌ?
SỐNG TỬ TẾ...
TRÊN THẾ GIAN...
TRẢI NGHIỆM SỰ TĨNH LẶNG TRONG TÂM HỒN MÌNH
"NHÂN SINH MỘT GIẤC PHÙ VÂN, SỚM CÒN XUÂN SẮC CHIỀU ĐÔNG ĐÃ TÀN" ĐÓ PHẢI CHĂNG CHÍNH LÀ ĐỜI NGƯỜI
CÁI CẦN GẠT NƯỚC
HÃY DUY TRÌ SỰ BẬN RỘN BỞI ĐÓ LÀ LIỀU THUỐC RẺ NHẤT THẾ GIỚI
NHẠC PHẨM “TÌNH LỠ” (NHẠC SĨ THANH BÌNH) – CON ĐƯỜNG MÌNH ĐI SAO CHÔNG GAI…
GIẾT NGƯỜI TRONG MỘNG
NGƯỜI ĐÓNG ĐINH THỜI GIAN
NGÀY HÔM QUA LÀ THẾ
ĐẾN VỚI NHAU LÀ DUYÊN, Ở BÊN NHAU LÀ NỢ,… “HỐI TIẾC” CHÍNH LÀ NỢ DUYÊN ĐÃ HẾT KHIẾN CHÚNG TA PHẢI XA LÌA
HẠNH PHÚC LÀ GÌ?
THI PHẨM “MỘT TIẾNG EM” CỦA THI SĨ ĐINH HÙNG ĐƯỢC NHẠC SĨ NGUYỄN HIỀN PHỔ NHẠC THÀNH THI KHÚC NỔI TIẾNG “MÁI TÓC DẠ HƯƠNG”
HẠNH PHÚC LANG THANG (ANH BẰNG & TRẦN NGỌC SƠN) HỒ HOÀNG YẾN
GỌI EM LÀ ĐOÁ HOA SẦU _THƠ PHẠM THIÊN THƯ _NHẠC PHẠM DUY
BUỒN TÀN THU (CHINH PHỤ KHÚC) – VĂN CAO
MỐI TÌNH XA XƯA (“CÉLÈBRE VALSE DE BRAHMS”)–JOHANNES BRAHMS _NHẠC NGOẠI QUỐC LỜI VIỆT – THỜI KỲ LÃNG MẠN
KHI NGƯỜI YÊU TÔI KHÓ– TUYỆT PHẨM TRỮ TÌNH CỦA NHẠC SĨ TRẦN THIỆN THANH
BÀI HÁT “GỌI NGƯỜI YÊU DẤU” – MỐI TÌNH OAN TRÁI Ở XỨ SƯƠNG MÙ ĐÀ LẠT
ĐỘNG HOA VÀNG THƠ PHẠM THIÊN THƯ & NHẠC PHẠM DUY
MỐI TÌNH GIỮA NGƯỜI ĐẸP LÝ LỆ HÀ VÀ CỰU HOÀNG BẢO ĐẠI LÀ NGUỒN CẢM HỨNG TẠO NÊN BÀI THƠ và BÀI HÁT NỔI TIẾNG "ÁO LỤA HÀ ĐÔNG" ĐÃ HƠN 50 NĂM QUA
THI SĨ CUNG TRẦM TƯỞNG VÀ NHỮNG “CHUYỆN TÌNH PARIS” TRONG THƠ CA – “LÊN XE TIỄN EM ĐI, CHƯA BAO GIỜ BUỒN THẾ…”
BÀI HÁT “GỌI NGƯỜI YÊU DẤU” – MỐI TÌNH OAN TRÁI Ở XỨ SƯƠNG MÙ ĐÀ LẠT
MÔI SON JULIE-MÁI TÓC CHỊ HOÀI NHẠC NHẬT LỜI VIỆT PHẠM DUY
HỌC CÁCH QUÊN
NGÔ THUỴ MIÊN & TỪ CÔNG PHỤNG suốt cả một đời sáng tác cả hai chỉ chung thủy với những bài tình ca
NẮNG XUÂN (SOLENZARA)_BẢN NHẠC NGỢI CA TÌNH QUÊ HƯƠNG
TÌNH QUÊ HƯƠNG _ VIỆT LANG
NHỮNG NĂM CÒN LẠI TRONG CUỘC ĐỜI...
ĐẾN MỘT LÚC
BÓNG HỒNG CỦA NS ĐOÀN CHUẨN VỪA QUA ĐỜI ! _LÁ ĐỔ MUÔN CHIỀU_
BẠN THƯỜNG XUYÊN BỊ STRESS, CĂNG THẲNG MỆT MỎI
CA KHÚC " NGƯỜI YÊU DẤU ƠI" _ MỘT NỖI BUỒN TUYỆT ĐẸP
PHẦN QUAN TRỌNG NHẤT CỦA MỖI NGƯỜI
VÀI DÒNG CẢM NGHỈ VỀ BÀI THƠ VÀ BÀI HÁT "EM HIỀN NHƯ MASOER"
HÃY SỐNG NHƯ BÔNG HỒNG
NS PHẠM DUY VÀ CA KHÚC NHẠC VÀNG "ANH HỞI ANH CỨ VỀ"
MỘT VÀI CẢM NHẬN NHẠC PHẨM "ĐỐ AI" CỦA NS PHẠM DUY
SỐNG CUỘC ĐỜI ĐÁNG SỐNG
HOÀN CẢNH SÁNG TÁC VÀ CẢM NHẬN VỀ CA KHÚC “BÊN NI BÊN NỚ” (CUNG TRẦM TƯỞNG – PHẠM DUY
NGƯỜI VỀ _ PHẠM DUY
DẠ LAI HƯƠNG _ PHẠM DUY
TÔI ĐANG MƠ GIẤC MỘNG DÀI _MỐI TÌNH THƠ NHẠC 10 NĂM CỦA NHẠC SỸ PHẠM DUY và NHÀ THƠ LÊ LAN
NS NGÔ THỤY MIÊN VÀ HOÀN CẢNH SÁNG TÁC NHẠC PHẨM "EM CÒN NHỚ MÙA XUÂN"
ĐÊM GIAO THỪA NHỚ MẸ_ NGHE BÀI HÁT MẸ TÔI QUA GIỌNG HÁT VÕ HẠ TRÂM
CẢM NHẬN VỀ CA KHÚC “CẢM ƠN” CỦA NHẠC SĨ NHẬT NGÂN
AI LÊN XỨ HOA ĐÀO_CÕI ĐÀO NGUYÊN MỘT THUỞ CỦA ĐÀ LẠT NGÀY XƯA
TÔI ĐI TÌM LẠI MỘT MÙA XUÂN (ĐOÀN NGUYÊN) LỆ THU
NS PHẠM DUY VÀ CÂU CHUYỆN “TÌNH MẸ DUYÊN CON”
JULIE – TIẾNG HÁT LIÊU TRAI ĐẦY MÊ HOẶC
MẸ và TÔI !
NGUỒN GỐC HOA THẠCH THẢO_MÙA THU CHẾT
VĨNH BIỆT NHẠC SĨ LAM PHƯƠNG (1937-2020_52 NHẠC PHẨM ĐỂ ĐỜI CỦA NS LAM PHƯƠNG THU ÂM TRƯỚC 75
THA LA XÓM ĐẠO _ NHẠC SĨ DZŨNG CHINH (1941-1969)
BÀI THÁNH CA BUỒN VÀ CUỘC TÌNH DƯỚI MƯA
LIÊN KHÚC BỐN CA KHÚC BẤT HỦ CỦA NS TRƯỜNG SA
THƯƠNG LẮM THÁNG 12_NGƯỜI TÌNH MÙA ĐÔNG
NẾU MỘT MAI EM SẼ QUA ĐỜI
ĐỪNG BỎ EM MỘT MÌNH – NÓI THAY LỜI TÂM SỰ CỦA NGƯỜI DƯỚI MỘ
VĨNH BIỆT DANH CA MAI HƯƠNG (1941-2020) – “VIÊN NGỌC QUÝ” CỦA TÂN NHẠC VIỆT NAM
RỒI MAI TÔI ĐƯA EM
MÙA THU TRONG MƯA
MỘT MAI EM ĐI
XIN CÒN GỌI TÊN NHAU
THU VÀNG, NHỮNG GAM MÀU TÊ TÁI
CHỈ CÒN GẦN EM MỘT GIÂY PHÚT THÔI...
HOÀN CẢNH SÁNG TÁC CA KHÚC “NGƯỜI ĐI QUA ĐỜI TÔI”_THƠ TRẦN DẠ TỪ NHẠC PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG_THẤT TÌNH CA MUÔN THUỞ
Nhạc Sỹ PHẠM TRỌNG CẦU sáng tác khá nhiều. Nhưng thính giả vẫn nhớ đến ông nhiều nhất qua hai ca khúc “MÙA THU KHÔNG TRỞ LẠI“ và “TRƯỜNG LÀNG TÔI”
GIÀ ĐẦU MÀ CÒN MÊ NHẠC SẾN
HẠT BỤI VO TRÒN TRONG BỤNG MẸ CÚT CÔI_TRẦM TỬ THIÊNG
MƯA NGÂU THÁNG BẢY_NGƯU LANG CHỨC NỮ ĐỢI CHỜ
TRÍCH TỪ BÀI VIẾT CỦA CỐ NỮ CA SỸ QUỲNH GIAO VỀ BÀI HÁT "HOÀI CẢM" CỦA NHẠC SỸ CUNG TIẾN.
NGHE NHẠC BUỒN LÀ ĐỂ TÌM KIẾM NIỀM VUI_THE RHYMTH OF THE RAIN
BÀI HÁT "TRĂNG TÀN TRÊN HÈ PHỐ" HÁT CHO NGƯỜI LÍNH NÀO
Ca sĩ KIM ANH: RƯỢU, MA TÚY và KIẾP CẦM CA
BOLERO CHỢ NỌ_ĐƯỜNG XƯA LỐI CŨ
KINH BỎ MẸ
VỀ NGANG TRƯỜNG LUẬT_TRẢ LẠI EM YÊU
CÓ MỘT HOÀNG ĐẾ TRUNG HOA MANG DÒNG MÁU ĐẠI VIỆT
CẢM NHẬN VỀ CA KHÚC "NƯƠNG CHIỀU" CỦA NS PHẠM DUY
PHIẾM: MỘNG SẦU_MƯA TRÊN CÂY SẦU ĐÔNG
SẮC MÔI EM HỒNG_ĐÀN BÀ QUYẾN RŨ VÌ ĐÂU ?
CHUYỆN PHIẾM VỀ ALBUM "TƠ VÀNG 3" NHỮNG TÌNH KHÚC TỪ CÔNG PHỤNG
ĐỜI ĐÁ VÀNG _ MỘT NHẠC PHẨM PHẢI MẤT 27 NĂM MỚI RA MẮT CÔNG CHÚNG
NGỮNG NGÀY THƠ MỘNG
GIAI THOẠI VỀ 3 BÀI THƠ " TRÈO LÊN CÂY BƯỞI HÁI HOA, ... " GẮN VỚI LỘC KHÊ HẦU "ĐÀO DUY TỪ"
NGƯỜI TÌNH LÀ THIÊN TAI
NỖI ĐAU MUỘN MÀNG _ NGÔ THUỴ MIÊN
NẮNG THUỶ TINH
CUỘC ĐỜI ĐÓ CÓ BAO LÂU MÀ HỮNG HỜ
MẸ ƠI, CON ĐÃ VỀ
LADY GREEN SLEEVES _ VAI ÁO MÀU XANH
TRỞ VỀ MÁI NHÀ XƯA _ COME BACK TO SORRENTO
SERENATA - CHIỀU TÀ
DÒNG SÔNG XANH-MỘT TRONG SỐ NHỮNG BÀI HÁT LÀM NÊN TÊN TUỔI DANH CA THÁI THANH
THÁI THANH_NGƯỜI ĐÃ ĐI RỒI
LẶNG LẼ NƠI NÀY_MỘT MÌNH ĐI...MỘT MÌNH VỀ... MỘT NGƯỜI CANADA NGHĨ VỀ NGHỆ THUẬT CỦA THÁI THANH (TRÍCH HỒI KÝ PHẠM DUY)
MỘT CÕI ĐI VỀ
ĐỂ GIÓ CUỐN ĐI
TIẾNG HÁT THÁI THANH ĐÃ VỀ CHỐN "NGHÌN TRÙNG XA CÁCH"
ALINE-GỌI TÊN NGƯỜI YÊU
CHỈ CHỪNG ĐÓ THÔI
NGUYÊN SA và SỰ THAY ĐỔI CẢM NHẬN THI CA VN
CÁNH BƯỚM VƯỜN XUÂN
DIỄM CỦA NGÀY XƯA
BẢN TÌNH CA CỔ XƯA "SCARBOROUGH FAIR" - ÔI GIÀN THIÊN LÝ ĐÃ XA
TÌNH SỬ ROMEO & JULIET- CHUYỆN TÌNH CỦA MỌI THỜI ĐẠI
TUYỆT PHẨM LÃNG MẠNG DÀNH CHO MỐI TÌNH ĐẦU 70 NĂM TRƯỚC _NS LÊ MỘNG NGUYÊN và "TRĂNG MỜ BÊN SUỐI
HẸN HÒ _ PHẠM DUY
PHÚT GIAO THỪA LẶNG LẼ ...
BẾN XUÂN
PHẠM THIÊN THƯ & NGÀY XƯA HOÀNG THỊ
LỆ THU hay "NƯỚC MẮT MÙA THU"
NGHỆ THUẬT VIẾT LỜI VIỆT CỦA NHẠC SỸ PHẠM DUY QUA CA KHÚC CHUYỆN TÌNH (LOVE STORY)
CA KHÚC "SANG NGANG" VÀ MỐI TÌNH TUYỆT VỌNG CỦA NHẠC SỸ ĐỖ LỄ
CÒN CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ ĐƯỢC PHỔ NHẠC & HÁT LẦN ĐU TIÊN TẠI PLEIKU NHƯ THẾ NÀO?
NỮA HỒN THƯƠNG ĐAU và BI KỊCH CỦA MỘT GIA ĐÌNH
TẠI SAO KHÔNG GIỮ LỜI HỨA VỚI MẸ TÔI ?
CON ĐƯỜNG TÌNH TA ĐI_ KÝ ỨC CỦA MỘT THỜI
TRÍCH TỪ HỒI KÝ CỦA CA SỸ JULIE
THÀ NHƯ GIỌT MƯA và "NGƯỜI TÊN NHIÊN" từ THƠ đến NHẠC
TÌNH HOÀI HƯƠNG
TẠI SAO NHẠC SỸ PHẠM DUY LẠI BỎ QUÊN CÂY ĐÀN ?
NƯƠNG CHIỀU
NHẠC SỸ DZŨNG CHINH _ TÁC GIẢ NHẠC PHẨM "NHỮNG ĐỒI HOA SIM" CHẾT TRÊN ĐỒI HOA SIM
ĐỜI NGƯỜI NHƯ GIÓ QUA
ĐƯỜNG TRẦN ĐÂU CÓ GÌ
TÌNH CA _ PHẠM DUY
CHO ĐỜI CHÚT ƠN
PHẠM DUY "TẠ ƠN ĐỜI" hay ĐỜI TẠ ƠN PHẠM DUY
THI SỸ PHẠM VĂN BÌNH và MỐI TÌNH KHẮC KHOẢI TRONG NHẠC PHẨM CHUYỆN TÌNH BUỒN
THƠ, NHẠC vả "NGƯỜI TÌNH" CỦA NGUYỄN ĐÌNH TOÀN
HOÀN CẢNH SÁNG TÁC CA KHÚC "QUÊ NGHÈO" CỦA NHẠC SỸ PHẠM DUY
NỖI LÒNG NGƯỜI ĐI hay "TÔI XA HÀ NỘI" ?
CHIỀU VỀ TRÊN SÔNG
NƯỚC NON NGÀN DẶM RA ĐI
ĐI TÌM ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY
VẾT THÙ TRÊN LƯNG NGỰA HOANG
ĐI TÌM ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY
KIẾP LÁ PHẬN NGƯỜI trong "ĐƯỜNG CHIỀU LÁ RỤNG"
NHẠC SỸ NGỌC CHÁNH _ "BAO GIỜ BIẾT TƯƠNG TƯ"
"CƠN MÊ CHIỀU" của NGUYỄN MINH KHÔI tưởng niệm cuộc thảm sát năm MẬU THÂN, HUẾ
CHỢT THẤY TUỔI GIÀ
MÙA THU trong tình ca Việt
ÔNG TRUMP NÓI GÌ VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VN
12 THÓI QUEN TƯỞNG XẤU NHƯNG HOÁ RA LẠI TỐT
CÁI "VÔ" TRONG TRANH THUỶ MẶC
10 DẤU HIỆU CHỨNG TỎ BẠN HẠNH PHÚC
BUÔNG BỎ PHIỀN NÃO
THÔI KỆ_TRỊNH CÔNG SƠN
GS TRẦN VĂN KHÊ: NGÀI CHƠI VỚI AI MÀ KHÔNG BIẾT MỘT ÁNG VĂN NÀO CỦA NƯỚC VIỆT ?
HAI MẶT CỦA CUÕC ĐỜI
KHI TÔI CHẾT, HỎI CÒN AI GHÉT, AI THƯƠNG?
PHÚT CHIÊM NGHIỆM CUỘC ĐỜI
GÕ CỬA VÔ THƯỜNG
GIÁ TRỊ CỦA SỰ TĨNH LẶNG
HIỂU ĐỜI
5 Cái “Đừng” Của Cuộc Đời
Bao dung càng lớn hạnh phúc càng nhiều
CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ TÌNH CHA
KIẾP NGƯỜI
CUỘC ĐỜI CỦA MẸ
CUỘC ĐỜI MỘT CHIẾC LÁ
TÌM ĐƯỢC NGƯỜI THẤU HIỂU MÌNH MỚI THỰC LÀ NIỀM VUI LỚN NHẤT
CHỢT THẤY TUỔI GIÀ
NHỮNG BỨC ẢNH THÀNH PHỐ TRONG MÀN MƯA CỦA NHIẾP ẢNH GIA EDUARD GORDEEV
BUDDHIST ADVICE ON ANGER
KỲ HUYỆT GIÚP PHỤC HỒI THỊ LỰC
MỐI TÌNH TÔM KHÔ CỦ KIỆU
05 CÁI PHÚC LỚN NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI
NHÌN THẤU NỘI TÂM MỘT NGƯỜI KHÔNG PHẢI ĐIỀU QUÁ KHÓ
CHIẾC ÁO SẦU HAI VẠT" TRONG NHỮNG KHÚC TÌNH CA
Hãy Đọc Khi Bạn Đang Cảm Thấy Chán Nản Về Cuộc Sống
LỜI XIN LỖI
NHỚ ĐẤY, CÁI CUỘC ĐỜI NÀY
Nước mía Viễn Đông (góc Lê Lợi - Pasteur) Sài Gòn xưa trước 75
NƯỚC CHANH CHUYÊN GIA GIẾT TẾ BÀO UNG THƯ
QUÁN TRỌ TRẦN GIAN
TRỜI MƯA NHƯ BÀI CA
TRONG DÒNG ĐỜI TRÔI CHẢY, KẺ ĐẾN NGƯỜI ĐI ĐỀU LÀ CÓ NGUYÊN DO CẢ...
HẠT BỤI NÀO HOÁ KIẾP THÂN TÔI...
TRÊN TRỜI MỘT VÌ SAO, DƯỚI ĐẤT MỘT CON NGƯỜI...
THƯỜNG KHIÊM TỐN, BẬC ĐẠI THIỆN GIẢ ẮT KHOAN DUNG
NẾU NHƯ TRONG LÒNG MỆT MỎI, HÃY THỬ NHÌN ĐỜI TỪ HƯỚNG KHÁC
NHẠC SĨ SONG NGỌC VÀ MỘT ĐỜI SÁNG TÁC
MẸO KHI BỊ ONG CHÍCH
CHUYỆN Ở ĐỜI…
ĐỂ QUÊN BÀI HỌC
CHA MẸ LÀ NHẤT TRÊN ĐỜI
MỘT CHÚT LAN MAN
EM CÓ BAO GIỜ ĐỨNG NGẮM MÙA ĐÔNG
CÂU CHUYỆN ĐÊM BA MƯƠI
ĐÀ LẠT NHỮNG NGÀY CUỐI NĂM
MƯỜI THỨ DÙ CÓ GIA TÀI BẠC TRIỆU CŨNG KHÔNG MUA ĐƯỢC
3 QUÊN, 4 CÓ, 5 KHÔNG
CHÉN THUỐC ĐỘC CỦA SOCRATES
NHẪN & NHỊN
Thông minh không phải yếu tố quan trọng nhất quyết định thành công, mà Chìa khóa của sự thành công là “ý chí”
Đời người là một loại lựa chọn, cũng là một loại buông bỏ
NHỮNG NGƯỜI BẠN GẶP TRÊN ĐƯỜNG
NHỚ MỘT THỜI XÍCH LÔ MÁY TẠI SÀI GÒN
XE ĐIỆN SÀI GÒN XƯA
CƠM THỐ SÀI GÒN XƯA
CÔ GÁI ĐÁNH CỌP NGAY LỄ KHAI THỊ CHỢ BẾN THÀNH 1914
HÃY NHẸ NHÀNG
XIN MỜI CÁC BÁC MUA CHIM NHÉ
CẢM XÚC NGÀY CUỐI NĂM
NHỮNG CÂY BONSAI BIẾT BAY LƠ LỬNG Ở NHẬT
ĐƠN GIẢN ĐẾN MỨC TẬN CÙNG CHÍNH LÀ TRÍ TUỆ
SỐNG HẠNH PHÚC HAY KHÔNG LÀ TUỲ TÂM MÌNH QUYẾT ĐỊNH
THƯ BA GỬI CON GÁI YÊU NGÀY VỀ NHÀ CHỒNG
BÂNG KHUÂNG CHIỀU CUỐI NĂM
LY RƯỢU CHIỀU CUỐI NĂM
TẢN MẠN CHIỀU CUỐI NĂM
LỜI CHÚC ĐẦU NĂM
TẠI SAO CÁC CỤ LẠI GỌI LÀ "TẾT NHẤT
TẾT NGUYÊN TIÊU TRONG TÂM THỨC NGƯỜI VIỆT
MÙI TẾT
CHIẾC CẶP ĐEN CỦA TỔNG THỐNG MỸ
THƠ CHÚC TẾT NƠI ĐẤT KHÁCH XUÂN CON KHỈ 2016
CHÚT TẢN MẠN ĐẦU NĂM BÍNH THÂN 2016
ĐẠP TUYẾT TẦM MAI
07 BÀI HỌC SÂU SẮC GIÚP BẠN CÓ CUỘC SỐNG ÍT BUỒN PHIỀN HƠN
MƯA RÀO VÀ MƯA BỤI
Cách cứu người tai biến mạch máu não bình phục tức khắc
LÀ AI KHÔNG QUAN TRỌNG, QUAN TRỌNG LÀ Ở CẠNH AI
MỘT CÁI ÔM MỖI NGÀY
DEAD MAN'S SUITCASE
SÀIGÒN DĨ VÃNG VÀ SÀIGÒN BOLSA
THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT KHÔNG CÓ ĐÈN XANH ĐÈN ĐỎ
NGƯỜI PHỤ NỮ CHÍNH LÀ PHONG THỦY TUYỆT VỜI CHO NGÔI NHÀ
NHỚ CÀ PHÊ NĂM CŨ
VẺ ĐẸP TRẦM MẶC CỔ KÍNH CỦA NHỮNG CÂY CẦU KHẮP NƠI TRÊN THẾ GIỚI
TỰ NGUYỆN
THÀNH THẬT
ĐẠO NGHĨA VỢ CHỒNG _ BÀN TAY NẮM LẤY BÀN TAY
KHÔNG CÓ THỜI GIAN_NO TIME
ĐỪNG ĐỂ TRÁI TIM BỊ ĐÁNH MẤT
KHOE KHOANG CÁI GÌ THÌ SẼ MẤT CÁI ĐÓ
CHA ĐẺ RẠP HÁT HƯNG ĐẠO
NHỮNG CÔNG TRÌNH TUYỆT VỜI BÊN BỜ SÔNG SEINE CỦA PARIS
9 ĐIỀU ĐỂ THẤY CUỘC ĐỜI ĐÁNG SỐNG
FLOWERS IN SNOW_HOA TUYẾT
AUD LANG SYNE_MỘT CA KHÚC DÙNG ĐỂ TIỄN ĐƯA NĂM CŨ VÀ ĐÓN CHÀO NĂM NỚI
LẠC LỐI GIỮA NHỮNG CON ĐƯỜNG NHỎ VÀ NHỮNG GÓC PHỐ BÌNH YÊN
BỨC TRANH KHÔNG CÓ MẮT
SUÝT NỮA BÀI THƠ "HAI SẮC HOA TIGÔN" ĐÃ CHÁY THÀNH TRO !
NIỀM VUI & NỔI BUỒN
CÓ TIỀN MUA NHÀ ĐẸP NHƯNG...
LẮNG NGHE
GIẤC MƠ ÁO TRẮNG
CÁ ĐÙ MỘT NẮNG BUÔNG ĐŨA CÒN THÈM
THƯỞNG THỨC VỊ BÉO BÙI DĨA ĐUÔNG ĐẤT NÓNG HỔI TRÀ VINH
Thơm hương lá mướp gói xương vịt bằm
BẬN
ẤM ÁP LÀ KHI...
MỘT CÕI ĐI VỀ
MỘT NGÀY KHÔNG VỘI VÃ
CÂU CHUYỆN VỀ ĐẠI HỌC STANFORD
BABYSITTING_GIỮ TRẺ Ở MỸ
CON CÁ TRÀU BƠI TỪ SÂU LÊN CẠN
SINH RA LÀ NGUYÊN BẢN ...
VỢ, NGƯỜI TÌNH & HỒNG NHAN TRI KỶ
MỘT CHÚT LAN MAN NGẪM LẠI "CÁI SỰ ĐỜI"
HỌA SĨ ĐINH CƯỜNG… KHÔNG CÒN VỚI CHÚNG TA NỮA
CÀN KHÔN ƠI XIN RÓT RƯỢU GIÙM NGAY
CÓ HỀ CHI VÀNG CHÚT RONG RÊU
CHO VÀ ...CHO
CHỢT THẤY TUỔI GIÀ
Đủ nắng hoa sẽ nở_Đủ yêu thương hạnh phúc sẽ đong đầy
OH! NHÌN GÌ MÀ KINH THẾ
VAI DIỄN CUỐI CÙNG
KHÔNG CÓ GIÁ TIỀN CHO TÌNH YÊU
HÃY QUÊN ĐI 3 THỨ TRONG ĐỜI
Sự khác biệt giữa tiền xu và tiền giấy
TRANH CÃI VỚI KẺ NGỐC...
ĐỂ GIÓ CUỐN ĐI
ĐỜI NGƯỜI NHƯ GIÓ QUA
LÀM SAO ĐỂ PHA ĐƯỢC CHÉN TRÀ NGON?
RẤT GẦN & RẤT XA
NHỮNG CHỐN BÌNH YÊN NHẤT XỨ HÀN
NHỮNG CÂU THƠ HAY VỀ BÔNG HỒNG
MẸ _ THƠ ĐỖ TRUNG QUÂN
MỰC MỘT NẮNG PHAN THIẾT
KỶ NIỆM _ HẠNH PHÚC HAY VẾT THƯƠNG
TRẦM TỬ THIÊNG_MỘT ĐỜI "TƯỞNG NIỆM"
KHÚC LUÂN VŨ MÙA ĐÔNG
MÙA GIÁNG SINH Ở SAN ANTONIO
MÓN NỘM 3 MIỀN_(GỎI 3 MIỀN)
HẤP DẪN HƯƠNG VỊ THỊT CỪU NƯỚNG NINH THUẬN
GÓC PHỐ DỊU DÀNG
SYLVIE VARTAN, 40 NĂM TÌNH KHÚC NICOLAS
3 NHẠC SĨ NỔI TIẾNG CÙNG SAY ĐẮM MỘT NÀNG TIÊN _CHUYỆN TÌNH NHẠC SĨ NGUYỄN THIỆN TƠ TÁC GIẢ CA KHÚC "GIÁO ĐƯỜNG IM BÓNG"
HÃY SỐNG CUỘC SỐNG CỦA MÌNH VÀ QUÊN ĐI TUỔI TÁC
BÀI THÁNH CA BUỒN VÀ CUỘC TÌNH DƯỚI MƯA
CẢNH THẦN TIÊN PHẢN CHIẾU TRÊN MẶT NƯỚC
BỘ ẢNH THẦN THOẠI CỦA NHIẾP ẢNH GIA CARLOS IONUT
CÁ LINH_ĐẶC SẢN MIỀN TÂY MÙA NƯỚC NỔI
SỐNG TỬ TẾ
SAI LẦM KHI TỨC GIẬN
CHI RỒI CŨNG QUA
KHE NỨT TRÁI ĐẤT BIẾN THÀNH HỒ NƯỚC TUYỆT ĐẸP_HỒ BAIKAL
NHỚ CON CÁ HỐ THÁNG GIÊNG
TRẢ LẠI THOÁNG MÂY BAY
MỖI PHÚT GIẬN DỮ
KHI VIỆT NAM MÌNH KHÔNG CÒN ĐẸP TRONG MẮT BẠN BÈ THẾ GIỚI...
6 VIỆC KHÔNG NÊN LÀM
THƯƠNG LẮM THÁNG 12
SỰ IM LẶNG NGỌT NGÀO
NHỮNG SẮC MÀU CUỘC SỐNG
ĐÔI ĐIỀU VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG BÀI THƠ "MẮT BUỒN" CỦA NHÀ THƠ BÙI GIÁNG
TIẾNG VIỆT DỄ THƯƠNG QUÁ
NẾU ĐỐI DIỆN VỚI THỬ THÁCH
GIẾT THỜI GIAN
TÀI SẢN QUÍ GIÁ NHẤT CỦA CON NGƯỜI
CHỈ MỘT CHÚT THÔI MÀ!
NGUỒN GỐC BÀI " KÈN MẶC NIỆM TỬ SĨ HOA KỲ"
NHỮNG NGÔI VƯỜN VÀ CÁNH ĐỒNG ĐẦY SẮC MÀU
THE POWER OF HUGS (SỨC MẠNH CỦA NHỮNG CÁI ÔM)
NHỮNG CÂU TRẢ LỜI CỦA NỮ TÀI TỬ AUDREY HEPBURN KHI ĐƯỢC HỎI VỀ BÍ QUYẾT LÀM ĐẸP CỦA BÀ
NHIẾP ẢNH GIA DANIELA BABIC ĐÃ CHỤP ẢNH CON TRAI 10 THÁNG TUỔI CỦA MÌNH CÙNG VỚI CÁC CON VẬT
ĐỪNG CHỜ ...
TRÊN THẾ GIAN NÀY...
NGÀY HÔM QUA LÀ THẾ
KHÚC HÁT CHIỀU MƯA NĂM CŨ “BÂNG KHUÂNG CHIỀU NỘI TRÚ”
MỘT CÂU CHUYỆN TÌNH… ĐỂ RA ĐỜI NHẠC PHẨM BẤT HỦ "nắng chiều"
TÉP BẠC MIỀN TÂY NAM BỘ